Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Quý 3, lợi nhuận trước dự phòng của VIB tăng 25,9%

Ngày 20/10, Ngân hàng Quốc Tế (VIB) đã công bố kết quả kinh doanh 9 tháng 2016, theo đó lợi nhuận trước dự phòng lũy kế đạt 940 tỷ đồng, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng thu nhập hoạt động tăng 21% so với cùng kỳ.

Tín dụng ngân hàng đạt 53.374 tỷ đồng, tăng trưởng 11,7% so với đầu năm. Huy động khách hàng tăng tương ứng 12,1%, đạt 59.779 nghìn tỷ. Thu nhập từ phí và dịch vụ tăng 41% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tổng tài sản VIB đạt 88.610 tỷ đồng, tăng 5% so với cuối năm 2015. Tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 1,54% so với 1,84% cuối quý 2 và 2,07% cuối năm ngoái, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) 15,6%, cao hơn so với quy định của Ngân hàng Nhà nước 9%.

Mới đây, trong báo cáo xếp hạng các ngân hàng Việt Nam của Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s vừa công bố ngày 20/10/2016, VIB được nâng hạng tín nhiệm lên B2.

Đầu tháng 10, VIB đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc tăng vốn điều lệ từ 4.845 tỷ đồng lên 5.644 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu thưởng theo kế hoạch Đại hội cổ đồng cổ đông VIB thông qua vào tháng 4/2016.

Về mảng ngân hàng số, theo VIB, sau 2 quý triển khai, trong quý 3 vừa rồi, Ngân hàng đạt được số lượng khách hàng đăng ký và mở tài khoản tăng 10 lần quý 2, lên 7.000 tài khoản/ một tháng.

Tiếp nối chuỗi chương trình khuyến mại tích hợp nhiều sản phẩm từ 6 tháng đầu năm, trong quý 3, VIB triển khai hàng loạt các chương trình và sản phẩm dịch vụ ưu đãi cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp với trọng tâm mang lại lợi ích cao nhất và đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch của khách hàng như Chương trình ưu đãi lãi suất vay trung dài hạn, sản phẩm cho vay mua ô tô siêu tốc, cho vay nhanh vốn lưu động cho khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ...

Thông qua các chương trình này, VIB hướng khách hàng tận dụng các gói hỗ trợ tài chính từ ngân hàng với lãi suất cạnh tranh và ổn định.

Thành lập năm 1996, ngày nay VIB đã trở thành 1 trong những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất với 154 chi nhánh, phòng giao dịch trên toàn quốc và có giao dịch với hơn 8.000 ngân hàng đại lý tại 61 quốc gia.

VIB hiện có gần 4.000 cán bộ, phục vụ 1,6 triệu khách hàng cá nhân, 34.000 khách hàng doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vừa và lớn.

Đọc tiếp »

Chính thức ngã ngũ phương án trả cổ tức BIDV

Ngày 21/10, Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ra nghị quyết, chính thức chốt lại phương án chi trả cổ tức năm 2015 từng có “đấu tranh” thời gian qua.

Theo đó, Hội đồng Quản trị BIDV điều chỉnh phương án chi trả cổ tức năm 2015, với hình thức chi trả bằng tiền mặt.

Cụ thể, BIDV sẽ trả cổ tức năm 2015 bằng tiền mặt với tỷ lệ 8,5%, tương ứng 2.905,9 tỷ đồng. Ngày đăng ký cuối cùng để thực hiện quyền nhận cổ tức của tất cả cổ đông là 4/11/2016; ngày thực hiện là 21/11/2016.

Như vậy, sau nửa năm chờ đợi, BIDV đã phải điều chỉnh phương án chi trả cổ tức, theo yêu cầu của Bộ Tài chính.

Trước đó, qua đại hội đồng cổ đông thường niên 2016, ngân hàng này đã thông qua phương án chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ (với tỷ lệ nói trên), với tỷ lệ biểu quyết đồng ý lên tới gần 100%.

Tuy nhiên, phương án trên sau đó không được Bộ Tài chính chấp thuận, mà yêu cầu phải trả bằng tiền mặt để nộp về ngân sách nhà nước. BIDV cũng đã có “đấu tranh” trong những tháng qua, song đến nay đã chính thức ngã ngũ.

Hiện cổ đông Nhà nước, qua đại diện là Ngân hàng Nhà nước, đang nắm tỷ lệ sở hữu lên tới 95,28% tại BIDV.

Ngày 22/10, BIDV sẽ tiến hành đại hội đồng cổ đông bất thường để sửa đổi điều lệ ngân hàng và quy chế tổ chức, hoạt động của Hội đồng Quản trị.

Đọc tiếp »

“Dùng tiền của dân thì phải công khai”

Tất cả các vấn đề về tài sản Nhà nước, vốn Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước..., khi dùng đồng tiền của dân thì phải công khai.

Đây là quan điểm của đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân (Tp.HCM) khi trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội, trong bối cảnh nhiều vấn đề về ngân sách, hiệu quả các dự án đầu tư ngàn tỷ nhưng kém hiệu quả đều chưa được công khai.

Ông Ngân cho rằng, không chỉ các báo cáo về các dự án lãng phí mà các vấn đề về ngân sách cũng cần công khai. Các doanh nghiệp Nhà nước sau này bắt buộc phải công khai báo cáo hàng năm vì sử dụng vốn của Nhà nước, của dân thì phải công khai... Nhưng quan trọng nữa, công khai ở thời điểm nào hợp lý nhất.

“Công khai như hiện nay khá chậm”

Nhiều đại biểu khi thảo luận về kế hoạch đầu tư công, kế hoạch tài chính, nợ công trung hạn đều phàn nàn về việc các tài liệu được gửi đến chậm, nên không có nhiều thời gian nghiên cứu, nếu cứ thông qua thì không thể yên tâm, ông có cùng nhận xét?

Chính phủ trình số phân bổ ngân sách đầu tư trong 5 năm khoảng 2 triệu tỷ, nhưng đại biểu Quốc hội cũng mới nhận được một chồng hồ sơ, thì làm sao đủ thời gian nghiên cứu hết.

Giá như việc này được công khai, gửi cho đại biểu Quốc hội cách đây vài tháng để có đủ thời gian nghiên cứu, phân tích giữa lợi ích, chi phí và vốn đầu tư ra cũng như tác động lan toả của dự án để đại biểu có đủ thông tin trước khi bấm nút phân bổ vốn.

GDP thời gian qua vốn quyết định 60%, trong thời gian tới dù có đổi mới thì vốn cũng quyết định tới 50%, nhưng vốn này được phân bổ thế nào, đảm bảo tiêu chí hiệu quả về xã hội, đảm bảo ưu tiên cho an ninh quốc phòng... nhưng cũng phải đảm bảo tái đầu tư cho khu vực đang hiệu quả. Cho nên tôi rất quan tâm tới việc phân bổ vốn đầu tư.

Các bạn có nói tại sao sử dụng tiền của dân đầu tư rồi đến khi không hiệu quả thì báo cáo lại đóng dấu mật, câu hỏi rất đúng, đã là vốn của dân thì phải được công khai.

Nhưng như tôi đã nói, công khai như hiện nay khá chậm, đáng lẽ những tài liệu này cần phải được gửi tới đại biểu từ trước. Mỗi đại biểu lại nắm lĩnh vực riêng nên cũng cần có tổ tư vấn phân tích các tài liệu này.

Vì thế nên ông không yên tâm quyết định ngay tại kỳ họp này?

Tôi rất lo ngại trong phân bổ vốn 2 triệu tỷ đồng tới đây, hơn 800.000 tỷ ngân sách địa phương thì để UBND tỉnh, thành phố quyết định, nhưng còn hơn 1,2 triệu tỷ đồng ngân sách Trung ương thì các đại biểu Quốc hội phải quyết, số này sẽ phân bổ làm sao?

Số tiền này sẽ dành một phần cho các cơ quan trung ương, bộ ngành, còn lại 63 tỉnh thành là 435.000 tỷ. Với Tp.HCM có ý kiến là phân bổ số 435.000 tỷ này, sẽ dựa trên tiêu chí gì?

Tỷ lệ dân số tại TPHCM khoảng trên 10%, vậy ít nhất phải là 42.000 tỷ trong khi thực tế chỉ được phân bố 29.000 tỷ.

“Thật sự thấy phân vân”

Trước kỳ họp này cử tri quan tâm rất nhiều đến các dự án ngàn tỷ đang “đắp chiếu”, rồi mức độ an toàn của nợ công... nhưng như ông nói, thông tin công khai khá chậm, vậy đại biểu sẽ trả lời cử tri thế nào?

Tôi nghĩ rằng đối với báo cáo gửi tới Quốc hội thì đại biểu được quyền phát biểu quan điểm của mình trước nghị trường, trên cơ sở đó báo chí vẫn có thể có thông tin.

Đồng thời, qua thảo luận trên nghị trường thì cũng sẽ giúp Quốc hội, Chính phủ cân nhắc hết các ý kiến đại biểu để đưa tới quyết định cuối cùng. Về phía đại biểu cũng phải thể hiện chính kiến của mình để phân bố vốn đầu tư đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, giảm nợ công, nợ Chính phủ.

Nợ công đã sát trần, ở mức cao. Cao so với các nước đang phát triển trong khu vực và cũng cao so với thu nhập bình quân đầu người. Ví dụ Thái Lan nợ công, nợ chính phủ 44% GDP, nhưng thu nhập bình quân đầu người 5.800 USD, còn Việt Nam nợ công, nợ chính phủ trên 50% nhưng thu nhập bình quân chỉ khoảng 2.100 USD.

Đã nhiều lần chuyện kỷ cương tài chính không nghiêm được Quốc hội bàn thảo, lần này Quốc hội cũng sẽ phải quyết những số tiền khổng lồ như tái cơ cấu cần hơn 10 triệu tỷ, đầu tư công trung hạn 2 triệu tỷ... Nhưng cũng chưa làm rõ được địa chỉ chi tiêu ngân sách lãng phí? Khi chưa làm rõ được trách nhiệm nhưng vẫn phải quyết những số tiền lớn, cảm nhận của ông thế nào?

Tôi thật sự thấy phân vân trong phân bổ ngân sách. Chính kiến của tôi sẽ được phát biểu tại phiên thảo luận trên nghị trường tới đây. Nếu không có sự điều chỉnh thì bản thân tôi sẽ không đồng ý thông qua vấn đề này.

Đọc tiếp »

Sẽ sớm có định hướng cho thí điểm phá sản ngân hàng

Tại diễn đàn Quốc hội đang diễn ra, Chính phủ và các đại diện lãnh đạo Chính phủ lần lượt gợi mở hướng đi xem xét thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém.

Ở hướng đi này, quan điểm đưa ra là Nhà nước không thể bảo hộ, bảo vệ những ngân hàng làm ăn yếu kém mãi được, mà từng bước xem xét cho phá sản, theo định hướng thị trường.

Cho phá sản ngân hàng là thông tin nhạy cảm, có thể tạo hiểu ứng dây chuyền bất lợi đối với hệ thống, đặc biệt là với tâm lý người gửi tiền.

Trong giai đoạn tái cơ cấu 2011-2015, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã xác định chưa thực hiện cho phá sản ngân hàng, vì quan ngại hiệu ứng nhạy cảm trên.

Mặt khác, trong một số báo cáo về thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước giai đoạn đó, việc cho phá sản ngân hàng được đánh giá là khó khăn, phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian để chuẩn bị, triển khai, cũng như xử lý các hệ quả. Thực tế, tại Việt Nam, đã từng có một số ngân hàng được cho phá sản, nhưng vài chục năm qua vẫn chưa xử lý gọn các hệ quả liên quan.

Đến nay, những thông tin gợi mở trên mới chỉ bước đầu nêu quan điểm, chưa cụ thể ở các diện hoặc vùng ngân hàng yếu kém, trường hợp và tình huống cụ thể.

Tuy nhiên, điểm dễ nhận thấy bối cảnh hiện nay đã rất khác so với giai đoạn 2011-2015. Hai thị trường nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều biến động, từng gây nhiều xáo trộn bất ổn vĩ mô là vàng và ngoại tệ, đến nay đã được Ngân hàng Nhà nước bình ổn. Đây là một yếu tố góp phần tạo nền tảng thuận lợi để có thể đặt ra định hướng thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém.

Trên một số diễn đàn xã hội, việc thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém đang được chú ý, gắn với những quan ngại về an toàn tiền gửi và bảo hiểm tiền gửi của người dân…

Trước quan ngại này, một lãnh đạo cao cấp của Ngân hàng Nhà nước cho biết, cơ quan đầu mối này sẽ sớm có thông tin định hướng cụ thể.

“Trong điều hành chính sách vĩ mô, Đảng và Nhà nước luôn xem xét lựa chọn các giải pháp tốt nhất. Việc nghiên cứu thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém cũng nhằm mục tiêu để thực hiện tái cơ cấu. Trong đó, các giải pháp tái cơ cấu ngân hàng luôn đặt hai yêu cầu hàng đầu là: để củng cố, bảo đảm an toàn của hệ thống; bảo vệ và đảm bảo lợi ích của người dân và người gửi tiền. Vì vậy, người dân cần tin tưởng, yên tâm với những giải pháp tái cơ cấu mà Đảng, Nhà nước định hướng”, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết.

Theo đó, trong tình huống xem xét thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém, hai yêu cầu tối thượng, nếu triển khai, là bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền.

Đọc tiếp »

Ngân hàng, ngân sách và trớ trêu lãi suất

Ngày 20/10, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có giấy chứng nhận đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Nhưng phải đến 24/10, thông tin chính thức mới được công bố.

Ngay sáng 24/10, lãnh đạo một ngân hàng thương mại khác cho biết sẽ xem xét đầu tư khoảng 500 tỷ trong tổng 2.000 tỷ trái phiếu Vietcombank phát hành lần này. Lý do, lãi suất hấp dẫn.

2.000 tỷ đồng trong kế hoạch dự kiến phát hành 8.000 tỷ của Vietcombank góp thêm sự sôi động cho mùa trái phiếu ngân hàng năm nay. Và như dự kiến tham gia của ngân hàng muốn đầu tư 500 tỷ nói trên, lãi suất ở đây là hấp dẫn.

Thế nhưng, với Vietcombank, chi phí trong kế hoạch phát hành này có một “khoảng lặng” được tính toán không hề dễ chịu.

Mục đích của đợt phát hành nhằm từng bước triển khai kế hoạch dự phòng, cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR). Điều này cho thấy triển vọng được các cơ quan chức năng duyệt kế hoạch bán vốn cho GIC (quỹ đầu tư của Singapore) mờ dần đi, dù hai bên đã có bản thỏa thuận đầu tư từ đầu tháng 9 vừa qua.

Đây là trái phiếu dài hạn, tới 10 năm, được tính vào vốn cấp 2, giúp nâng CAR khỏi chìm vào vi phạm quy định hoạt động, khi kế hoạch tăng vốn, qua bán cho GIC, đang kém khả thi. Lãi suất trái phiếu bằng bình quân kỳ hạn 12 tháng của nhóm “Big 4” cộng thêm 1%/năm. “Khoảng lặng” không dễ chịu nằm ở đây.

Vietcombank vừa quyết định giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm sâu từ 1-1,5%/năm lãi suất cho vay, thế nhưng, với kế hoạch phát hành trái phiếu này họ phải trả lãi suất rất cao.

Trớ trêu, một ngân hàng đang có mặt bằng lãi suất huy động thấp nhất thị trường, phổ biến dưới 6,5%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn của họ cũng cố tìm khách tốt để chào cỡ 6%/năm, vốn có trạng thái dư thừa, nhưng vẫn phải đi vay (qua trái phiếu nói trên) với lãi suất khoảng 7,5-7,7%/năm.

Chưa hết, gánh nặng lãi vay này sẽ tiếp tục kéo dài theo kỳ hạn của trái phiếu, bất chấp Vietcombank có thừa vốn huy động giá thấp đi nữa. Và nếu phải dùng hết kế hoạch phát hành 8.000 tỷ trái phiếu, chi phí trớ trêu đó là đáng kể.

Nếu như cổ đông lớn Nhà nước, đang chiếm tỷ lệ sở hữu chi phối, thể hiện vai trò hỗ trợ tốt hơn cho ngân hàng tăng vốn, cải thiện hệ số CAR, thì đã không phải dùng đến biện pháp tài chính có chi phí trớ trêu đó. Bớt gánh nặng, bước nhanh hơn, nộp ngân sách Nhà nước sẽ tốt hơn. Đây không phải là suy đoán chủ quan, vì năm rồi, Vietcombank đã nộp về ngân sách tới 4.400 tỷ, lớn nhất trong hệ thống. Và năm nay, đây đang là ứng viên sáng giá nhất cho vị trí dẫn đầu lợi nhuận toàn hệ thống.

Nhìn sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cũng không mấy khác biệt về tình cảnh.

Cuối cùng, BIDV cũng đã phải nộp về ngân sách Nhà nước phần cổ tức 2015, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, thay vì có thể tranh thủ nguồn lực này bằng trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Ngân sách Nhà nước đã không nhượng bộ, không hỗ trợ, không thể hiện vai trò là cổ đông lớn nhất, thì BIDV phải tìm cách huy động, tương tự với trái phiếu dài hạn để tính vào vốn cấp 2.

Vẫn là trớ trêu, ngân hàng dư vốn, đang cho vay lãi suất ngắn hạn chỉ khoảng 6%/năm, lại phải đi huy động trái phiếu lãi suất cao vượt trội 7,5-7,7%/năm. Và tương tự Vietcombank, con đường cải thiện CAR của BIDV cũng phải vá víu với chi phí như vậy, càng khó mở rộng kinh doanh để nâng lợi nhuận, tăng nộp ngân sách.

Điểm an ủi ở hướng đi này, có chăng là chờ đợi tương lai. Giả dụ, trong vòng 5 năm tới, cả Vietcombank và BIDV cùng bán vốn cho nước ngoài thành công, hoặc cổ đông Nhà nước “mở lòng” đầu tư thêm vốn, CAR theo đó được cải thiện bền vững, họ có thể mua lại trái phiếu đã phát hành để chủ động cắt gánh nặng chi phí lãi suất cao này.

Đó là hy vọng ở tương lai, tính hiện thực chưa rõ. Còn lúc này, kế hoạch tài chính 2016 của những “ông lớn” này đều cho thấy một thực tế: kỷ luật thu ngân sách, xét riêng ở đây, chặt chẽ đến khắc nghiệt, phải thu và nộp toàn bộ, như không tính toán đến thiệt hơn.

Như vậy liệu có tình huống “tham bát bỏ mâm” không, bởi nếu ngân sách năm nay hỗ trợ họ tăng vốn, nâng cao CAR thì họ sẽ kinh doanh tốt hơn, lợi nhuận tốt hơn và sẽ nộp cho ngân sách nhiều hơn, trước hết là về thuế rồi đến cổ tức?

Tình huống vẫn chỉ là tình huống. Vì hiện BIDV đã buộc phải nộp cổ tức bằng tiền về Bộ Tài chính rồi; kế hoạch bán cổ phần để tăng vốn của Vietcombank cũng mờ dần khả năng được duyệt. Không và khó có phép màu thay đổi ở đây.

Đọc tiếp »

Mỗi năm Việt Nam trả nợ vay ODA khoảng 1 tỷ USD

Chiều 25/10, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) đã tổ chức họp báo chuyên đề giới thiệu nội dung mới về quản lý tài chính các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay của các nhà tài trợ nước ngoài theo Thông tư số 111/2016 mới ban hành của Bộ Tài chính.

Lãi ODA đã vay tăng lên 2-3,5% từ tháng 7/2017

Tại buổi họp báo, ông Hoàng Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, cho biết, trong 10 năm (2005-2015), tổng số vốn ODA của Việt Nam đã ký kết khoảng 45 tỷ USD, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực cân đối tài chính vĩ mô, phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu, nông nghiệp...

Lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, vốn vay ODA vẫn nằm trong hạn mức của Chính phủ. Bình quân dự toán trả nợ gốc và lãi vốn ODA khoảng 1 tỷ USD. Về việc vay nợ mới để trả nợ cũ, ông Hoàng Hải cho rằng nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản cũng làm vậy.

Tuy nhiên, Việt Nam chưa được chuyên nghiệp như các nước trên hàng năm vẫn dùng ngân sách Nhà nước để đáp ứng trả nợ, trong những năm gần đây buộc phải vay mới trả cũ thực hiện để đảm bảo cân đối trả nợ.

Từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm rõ rệt. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp.

Dự kiến đến tháng 7/2017, Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%.

"Ngân hàng thế giới sẽ nhóm họp và ra quyết định Việt Nam cùng một số quốc gia khác có tốt nghiệp IDA (không thuộc nhóm nước thu nhập thấp) hay không. Nếu Việt Nam được bỏ phiếu tốt nghiệp IDA thì sẽ không được vay ODA theo điều kiện", ông Hải cho biết.

Quản lý hiệu quả vốn ODA

Trong bối cảnh Việt Nam bắt đầu bước vào ngưỡng các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, việc huy động các nguồn vốn ODA trở nên khó khăn hơn. Nhằm đảm bảo mục tiêu vay nợ bền vững thì nguồn vốn ODA cũng cần được sử dụng một cách chiến lược và cẩn trọng để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế bởi thực chất, nguồn vốn ODA cũng chính là nợ quốc gia.

Do đó, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02 về tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công. Theo đó, nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các công trình kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch. Tăng dần tỷ lệ cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.

Dựa trên chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài chính đã áp dụng Thông tư 111 từ 30/6/2016 với một số quy định mới như hướng dẫn rõ nội dung và quy trình xác định cơ chế tài chính ngay từ khâu đề xuất chương trình, dự án; Quy định về khâu lập kế hoạch và kiểm soát chi, quản lý giải ngân; Quy định về quy trình kiểm soát chi, đối với vốn ODA, vốn vay ưu đãi áp dụng quy trình chung về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp, thanh toán chi giải phóng mặt bằng...

Ngoài ra Thông tư còn bổ sung hướng dẫn về một số nội dung đặc thù đối với vốn ODA, quy trình hạch toán ngân sách nhà nước mới...

Theo ông Hoàng Hải, việc quy định rõ về quy trình xác định cơ chế tài chính, cơ chế giải ngân theo kế hoạch vốn được giao, quy trình hạch toán ngân sách mới sẽ giúp quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay nước ngoài.

Đọc tiếp »

“Giải tỏa nỗi sợ trách nhiệm để xử lý nợ xấu”

Chiều 26/10/2016, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội thảo với chủ đề “Xử lý nợ xấu - Những nút thắt cần tháo gỡ”. Biết sự kiện này, ông Nguyễn Duy Hưng, người từng nhiều năm làm lãnh đạo tại một số ngân hàng thương mại và là một bạn đọc của VnEconomy, trao đổi thêm một góc nhìn bên lề.

Từ hơn chục năm trước, tại nhiều hội thảo, diễn đàn về xử lý nợ xấu, ông Hưng từng phát biểu, nêu nhiều vướng mắc pháp lý trong khởi kiện, xử lý tài sản đảm bảo, thi hành án…

Đến nay nhìn lại, ông vẫn nản: “Cơ chế chính sách cũng có thay đổi, nhưng về cơ bản các vướng mắc vẫn vậy. Chúng ta cứ xoay quanh nó, rồi lại thêm dăm mười năm nữa may chăng được tháo gỡ thực sự để có thể giúp xử lý nợ xấu”.

Muốn, nhưng không sẵn sàng

Ba năm qua, ông Hưng tự bỏ tiền túi và huy động các nguồn ủy thác tham gia mua bán nợ. Những gì ông chia sẻ là đúc kết thực tế trong quá trình làm việc với các ngân hàng. Và vướng mắc lớn nhất trong xử lý nợ xấu thời gian qua và hiện nay, theo ông, là quan điểm về nợ xấu và vấn đề trách nhiệm.

“Tôi làm việc với nhiều ngân hàng. Họ muốn bán nợ xấu, nhưng lại không sẵn sàng bán. Như trong chứng khoán, bán nợ xấu là hành động cắt lỗ. Ai dám cắt và chịu trách nhiệm cho phần lỗ đó? Thiệt hại từ nợ xấu là tổn thất của ngân hàng, nhưng trách nhiệm sẽ quy về cá nhân liên quan, người cho vay hoặc người bán nợ”, ông đặt vấn đề.

Theo ông, nợ xấu là hàng hóa, nhưng là hàng hóa giảm giá. Bởi nếu vẫn bán đúng giá ban đầu của nó thì không bao giờ bán được. Khi trở thành nợ xấu, giá hàng hóa này bị giảm. Thế nhưng, giả dụ, một khoản nợ 50 tỷ đồng, trở thành nợ xấu và chỉ bán được 30 tỷ đồng, 20 tỷ mất mát đó ai sẽ chịu trách nhiệm?

Trách nhiệm đầu tiên là những người cho vay, các cá nhân liên quan. Nếu bán, cắt lỗ và hiện thực lỗ, mất mát này sẽ quy trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp, có thể là trách nhiệm pháp lý - hình sự hóa các quan hệ dân sự, điều quan ngại nhất trong tâm lý những người làm ngân hàng những năm gần đây, theo nhìn nhận của ông Hưng.

Cũng chính vì quan ngại đó, thị trường mua bán nợ thực sự vẫn thiếu người bán, hàng hóa vẫn hạn chế và chưa hấp dẫn, chưa kích thích để tạo và thu hút những người đi mua. Xử lý nợ xấu bằng hướng này, bằng giải pháp thị trường, vẫn chưa phát triển.

An toàn cho người cắt lỗ?

Với góc nhìn đó, người trong cuộc này cho rằng, nguyên do chính khiến nợ xấu vẫn còn đó, vẫn cao vì đã không để hoặc chưa tạo được điều kiện để thị trường tham gia vào xử lý.

“Trong hoạt động ngân hàng, trong nền kinh tế, nợ xấu phát sinh là bình thường. Dù có nguyên nhân chủ quan, khách quan, có yếu tố tiêu cực, tích cực, nhưng nó là câu chuyện của thị trường và cần được xử lý bằng những giải pháp thị trường, tất nhiên là có sự vận hành của Nhà nước”, góc nhìn trên nêu quan điểm.

Theo đó, nợ xấu được xem là hàng hóa, một loại hàng hóa giảm giá. Nếu có người bán, giá giảm sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh, thị trường và nhà đầu tư sẽ không bỏ qua cơ hội đó. Những vướng mắc kỹ thuật trong xử lý nợ, được nêu lên cả chục năm qua, cũng sẽ phản ánh vào giá. Và khi nợ xấu trở thành cơ hội kinh doanh, tự thân thị trường sẽ hút các nguồn lực chảy vào đây.

Nhưng, như trên, vướng mắc chính vẫn là nỗi sợ trách nhiệm, khiến ngân hàng không sẵn sàng bán cắt lỗ để kích thích các nguồn lực trên thị trường tham gia vào xử lý nợ xấu.

Ý kiến trên cho rằng, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã giảm sốc vấn đề nợ xấu đối với nền kinh tế bằng giải pháp VAMC, thì đến nay cần sử dụng rõ ràng hơn giải pháp của thị trường.

Trước vướng mắc của nỗi sợ trách nhiệm, ông Nguyễn Duy Hưng cho rằng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng, các cá nhân liên quan đối diện với trách nhiệm tổn thất từ nợ xấu, qua chủ trương không hình sự hóa các quan hệ dân sự, tạo cơ chế an toàn cho các quyết định bán nợ xấu - cắt lỗ ở loại hàng hóa giá giảm này.

“Tôi tin rằng, nếu giải tỏa được vấn đề trách nhiệm ở đây, thị trường mua bán nợ sẽ có cơ hội phát triển tốt hơn, việc xử lý nợ xấu sẽ nhanh và thực chất hơn. Dĩ nhiên, đây phải là quá trình xử lý công khai và minh bạch”, ông Hưng kỳ vọng.

Đọc tiếp »