Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Quý 3, lợi nhuận trước dự phòng của VIB tăng 25,9%

Ngày 20/10, Ngân hàng Quốc Tế (VIB) đã công bố kết quả kinh doanh 9 tháng 2016, theo đó lợi nhuận trước dự phòng lũy kế đạt 940 tỷ đồng, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng thu nhập hoạt động tăng 21% so với cùng kỳ.

Tín dụng ngân hàng đạt 53.374 tỷ đồng, tăng trưởng 11,7% so với đầu năm. Huy động khách hàng tăng tương ứng 12,1%, đạt 59.779 nghìn tỷ. Thu nhập từ phí và dịch vụ tăng 41% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tổng tài sản VIB đạt 88.610 tỷ đồng, tăng 5% so với cuối năm 2015. Tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 1,54% so với 1,84% cuối quý 2 và 2,07% cuối năm ngoái, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) 15,6%, cao hơn so với quy định của Ngân hàng Nhà nước 9%.

Mới đây, trong báo cáo xếp hạng các ngân hàng Việt Nam của Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s vừa công bố ngày 20/10/2016, VIB được nâng hạng tín nhiệm lên B2.

Đầu tháng 10, VIB đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc tăng vốn điều lệ từ 4.845 tỷ đồng lên 5.644 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu thưởng theo kế hoạch Đại hội cổ đồng cổ đông VIB thông qua vào tháng 4/2016.

Về mảng ngân hàng số, theo VIB, sau 2 quý triển khai, trong quý 3 vừa rồi, Ngân hàng đạt được số lượng khách hàng đăng ký và mở tài khoản tăng 10 lần quý 2, lên 7.000 tài khoản/ một tháng.

Tiếp nối chuỗi chương trình khuyến mại tích hợp nhiều sản phẩm từ 6 tháng đầu năm, trong quý 3, VIB triển khai hàng loạt các chương trình và sản phẩm dịch vụ ưu đãi cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp với trọng tâm mang lại lợi ích cao nhất và đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch của khách hàng như Chương trình ưu đãi lãi suất vay trung dài hạn, sản phẩm cho vay mua ô tô siêu tốc, cho vay nhanh vốn lưu động cho khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ...

Thông qua các chương trình này, VIB hướng khách hàng tận dụng các gói hỗ trợ tài chính từ ngân hàng với lãi suất cạnh tranh và ổn định.

Thành lập năm 1996, ngày nay VIB đã trở thành 1 trong những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất với 154 chi nhánh, phòng giao dịch trên toàn quốc và có giao dịch với hơn 8.000 ngân hàng đại lý tại 61 quốc gia.

VIB hiện có gần 4.000 cán bộ, phục vụ 1,6 triệu khách hàng cá nhân, 34.000 khách hàng doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vừa và lớn.

Đọc tiếp »

Chính thức ngã ngũ phương án trả cổ tức BIDV

Ngày 21/10, Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ra nghị quyết, chính thức chốt lại phương án chi trả cổ tức năm 2015 từng có “đấu tranh” thời gian qua.

Theo đó, Hội đồng Quản trị BIDV điều chỉnh phương án chi trả cổ tức năm 2015, với hình thức chi trả bằng tiền mặt.

Cụ thể, BIDV sẽ trả cổ tức năm 2015 bằng tiền mặt với tỷ lệ 8,5%, tương ứng 2.905,9 tỷ đồng. Ngày đăng ký cuối cùng để thực hiện quyền nhận cổ tức của tất cả cổ đông là 4/11/2016; ngày thực hiện là 21/11/2016.

Như vậy, sau nửa năm chờ đợi, BIDV đã phải điều chỉnh phương án chi trả cổ tức, theo yêu cầu của Bộ Tài chính.

Trước đó, qua đại hội đồng cổ đông thường niên 2016, ngân hàng này đã thông qua phương án chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ (với tỷ lệ nói trên), với tỷ lệ biểu quyết đồng ý lên tới gần 100%.

Tuy nhiên, phương án trên sau đó không được Bộ Tài chính chấp thuận, mà yêu cầu phải trả bằng tiền mặt để nộp về ngân sách nhà nước. BIDV cũng đã có “đấu tranh” trong những tháng qua, song đến nay đã chính thức ngã ngũ.

Hiện cổ đông Nhà nước, qua đại diện là Ngân hàng Nhà nước, đang nắm tỷ lệ sở hữu lên tới 95,28% tại BIDV.

Ngày 22/10, BIDV sẽ tiến hành đại hội đồng cổ đông bất thường để sửa đổi điều lệ ngân hàng và quy chế tổ chức, hoạt động của Hội đồng Quản trị.

Đọc tiếp »

“Dùng tiền của dân thì phải công khai”

Tất cả các vấn đề về tài sản Nhà nước, vốn Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước..., khi dùng đồng tiền của dân thì phải công khai.

Đây là quan điểm của đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân (Tp.HCM) khi trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội, trong bối cảnh nhiều vấn đề về ngân sách, hiệu quả các dự án đầu tư ngàn tỷ nhưng kém hiệu quả đều chưa được công khai.

Ông Ngân cho rằng, không chỉ các báo cáo về các dự án lãng phí mà các vấn đề về ngân sách cũng cần công khai. Các doanh nghiệp Nhà nước sau này bắt buộc phải công khai báo cáo hàng năm vì sử dụng vốn của Nhà nước, của dân thì phải công khai... Nhưng quan trọng nữa, công khai ở thời điểm nào hợp lý nhất.

“Công khai như hiện nay khá chậm”

Nhiều đại biểu khi thảo luận về kế hoạch đầu tư công, kế hoạch tài chính, nợ công trung hạn đều phàn nàn về việc các tài liệu được gửi đến chậm, nên không có nhiều thời gian nghiên cứu, nếu cứ thông qua thì không thể yên tâm, ông có cùng nhận xét?

Chính phủ trình số phân bổ ngân sách đầu tư trong 5 năm khoảng 2 triệu tỷ, nhưng đại biểu Quốc hội cũng mới nhận được một chồng hồ sơ, thì làm sao đủ thời gian nghiên cứu hết.

Giá như việc này được công khai, gửi cho đại biểu Quốc hội cách đây vài tháng để có đủ thời gian nghiên cứu, phân tích giữa lợi ích, chi phí và vốn đầu tư ra cũng như tác động lan toả của dự án để đại biểu có đủ thông tin trước khi bấm nút phân bổ vốn.

GDP thời gian qua vốn quyết định 60%, trong thời gian tới dù có đổi mới thì vốn cũng quyết định tới 50%, nhưng vốn này được phân bổ thế nào, đảm bảo tiêu chí hiệu quả về xã hội, đảm bảo ưu tiên cho an ninh quốc phòng... nhưng cũng phải đảm bảo tái đầu tư cho khu vực đang hiệu quả. Cho nên tôi rất quan tâm tới việc phân bổ vốn đầu tư.

Các bạn có nói tại sao sử dụng tiền của dân đầu tư rồi đến khi không hiệu quả thì báo cáo lại đóng dấu mật, câu hỏi rất đúng, đã là vốn của dân thì phải được công khai.

Nhưng như tôi đã nói, công khai như hiện nay khá chậm, đáng lẽ những tài liệu này cần phải được gửi tới đại biểu từ trước. Mỗi đại biểu lại nắm lĩnh vực riêng nên cũng cần có tổ tư vấn phân tích các tài liệu này.

Vì thế nên ông không yên tâm quyết định ngay tại kỳ họp này?

Tôi rất lo ngại trong phân bổ vốn 2 triệu tỷ đồng tới đây, hơn 800.000 tỷ ngân sách địa phương thì để UBND tỉnh, thành phố quyết định, nhưng còn hơn 1,2 triệu tỷ đồng ngân sách Trung ương thì các đại biểu Quốc hội phải quyết, số này sẽ phân bổ làm sao?

Số tiền này sẽ dành một phần cho các cơ quan trung ương, bộ ngành, còn lại 63 tỉnh thành là 435.000 tỷ. Với Tp.HCM có ý kiến là phân bổ số 435.000 tỷ này, sẽ dựa trên tiêu chí gì?

Tỷ lệ dân số tại TPHCM khoảng trên 10%, vậy ít nhất phải là 42.000 tỷ trong khi thực tế chỉ được phân bố 29.000 tỷ.

“Thật sự thấy phân vân”

Trước kỳ họp này cử tri quan tâm rất nhiều đến các dự án ngàn tỷ đang “đắp chiếu”, rồi mức độ an toàn của nợ công... nhưng như ông nói, thông tin công khai khá chậm, vậy đại biểu sẽ trả lời cử tri thế nào?

Tôi nghĩ rằng đối với báo cáo gửi tới Quốc hội thì đại biểu được quyền phát biểu quan điểm của mình trước nghị trường, trên cơ sở đó báo chí vẫn có thể có thông tin.

Đồng thời, qua thảo luận trên nghị trường thì cũng sẽ giúp Quốc hội, Chính phủ cân nhắc hết các ý kiến đại biểu để đưa tới quyết định cuối cùng. Về phía đại biểu cũng phải thể hiện chính kiến của mình để phân bố vốn đầu tư đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, giảm nợ công, nợ Chính phủ.

Nợ công đã sát trần, ở mức cao. Cao so với các nước đang phát triển trong khu vực và cũng cao so với thu nhập bình quân đầu người. Ví dụ Thái Lan nợ công, nợ chính phủ 44% GDP, nhưng thu nhập bình quân đầu người 5.800 USD, còn Việt Nam nợ công, nợ chính phủ trên 50% nhưng thu nhập bình quân chỉ khoảng 2.100 USD.

Đã nhiều lần chuyện kỷ cương tài chính không nghiêm được Quốc hội bàn thảo, lần này Quốc hội cũng sẽ phải quyết những số tiền khổng lồ như tái cơ cấu cần hơn 10 triệu tỷ, đầu tư công trung hạn 2 triệu tỷ... Nhưng cũng chưa làm rõ được địa chỉ chi tiêu ngân sách lãng phí? Khi chưa làm rõ được trách nhiệm nhưng vẫn phải quyết những số tiền lớn, cảm nhận của ông thế nào?

Tôi thật sự thấy phân vân trong phân bổ ngân sách. Chính kiến của tôi sẽ được phát biểu tại phiên thảo luận trên nghị trường tới đây. Nếu không có sự điều chỉnh thì bản thân tôi sẽ không đồng ý thông qua vấn đề này.

Đọc tiếp »

Sẽ sớm có định hướng cho thí điểm phá sản ngân hàng

Tại diễn đàn Quốc hội đang diễn ra, Chính phủ và các đại diện lãnh đạo Chính phủ lần lượt gợi mở hướng đi xem xét thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém.

Ở hướng đi này, quan điểm đưa ra là Nhà nước không thể bảo hộ, bảo vệ những ngân hàng làm ăn yếu kém mãi được, mà từng bước xem xét cho phá sản, theo định hướng thị trường.

Cho phá sản ngân hàng là thông tin nhạy cảm, có thể tạo hiểu ứng dây chuyền bất lợi đối với hệ thống, đặc biệt là với tâm lý người gửi tiền.

Trong giai đoạn tái cơ cấu 2011-2015, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã xác định chưa thực hiện cho phá sản ngân hàng, vì quan ngại hiệu ứng nhạy cảm trên.

Mặt khác, trong một số báo cáo về thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước giai đoạn đó, việc cho phá sản ngân hàng được đánh giá là khó khăn, phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian để chuẩn bị, triển khai, cũng như xử lý các hệ quả. Thực tế, tại Việt Nam, đã từng có một số ngân hàng được cho phá sản, nhưng vài chục năm qua vẫn chưa xử lý gọn các hệ quả liên quan.

Đến nay, những thông tin gợi mở trên mới chỉ bước đầu nêu quan điểm, chưa cụ thể ở các diện hoặc vùng ngân hàng yếu kém, trường hợp và tình huống cụ thể.

Tuy nhiên, điểm dễ nhận thấy bối cảnh hiện nay đã rất khác so với giai đoạn 2011-2015. Hai thị trường nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều biến động, từng gây nhiều xáo trộn bất ổn vĩ mô là vàng và ngoại tệ, đến nay đã được Ngân hàng Nhà nước bình ổn. Đây là một yếu tố góp phần tạo nền tảng thuận lợi để có thể đặt ra định hướng thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém.

Trên một số diễn đàn xã hội, việc thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém đang được chú ý, gắn với những quan ngại về an toàn tiền gửi và bảo hiểm tiền gửi của người dân…

Trước quan ngại này, một lãnh đạo cao cấp của Ngân hàng Nhà nước cho biết, cơ quan đầu mối này sẽ sớm có thông tin định hướng cụ thể.

“Trong điều hành chính sách vĩ mô, Đảng và Nhà nước luôn xem xét lựa chọn các giải pháp tốt nhất. Việc nghiên cứu thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém cũng nhằm mục tiêu để thực hiện tái cơ cấu. Trong đó, các giải pháp tái cơ cấu ngân hàng luôn đặt hai yêu cầu hàng đầu là: để củng cố, bảo đảm an toàn của hệ thống; bảo vệ và đảm bảo lợi ích của người dân và người gửi tiền. Vì vậy, người dân cần tin tưởng, yên tâm với những giải pháp tái cơ cấu mà Đảng, Nhà nước định hướng”, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết.

Theo đó, trong tình huống xem xét thí điểm cho phá sản ngân hàng yếu kém, hai yêu cầu tối thượng, nếu triển khai, là bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền.

Đọc tiếp »

Ngân hàng, ngân sách và trớ trêu lãi suất

Ngày 20/10, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có giấy chứng nhận đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Nhưng phải đến 24/10, thông tin chính thức mới được công bố.

Ngay sáng 24/10, lãnh đạo một ngân hàng thương mại khác cho biết sẽ xem xét đầu tư khoảng 500 tỷ trong tổng 2.000 tỷ trái phiếu Vietcombank phát hành lần này. Lý do, lãi suất hấp dẫn.

2.000 tỷ đồng trong kế hoạch dự kiến phát hành 8.000 tỷ của Vietcombank góp thêm sự sôi động cho mùa trái phiếu ngân hàng năm nay. Và như dự kiến tham gia của ngân hàng muốn đầu tư 500 tỷ nói trên, lãi suất ở đây là hấp dẫn.

Thế nhưng, với Vietcombank, chi phí trong kế hoạch phát hành này có một “khoảng lặng” được tính toán không hề dễ chịu.

Mục đích của đợt phát hành nhằm từng bước triển khai kế hoạch dự phòng, cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR). Điều này cho thấy triển vọng được các cơ quan chức năng duyệt kế hoạch bán vốn cho GIC (quỹ đầu tư của Singapore) mờ dần đi, dù hai bên đã có bản thỏa thuận đầu tư từ đầu tháng 9 vừa qua.

Đây là trái phiếu dài hạn, tới 10 năm, được tính vào vốn cấp 2, giúp nâng CAR khỏi chìm vào vi phạm quy định hoạt động, khi kế hoạch tăng vốn, qua bán cho GIC, đang kém khả thi. Lãi suất trái phiếu bằng bình quân kỳ hạn 12 tháng của nhóm “Big 4” cộng thêm 1%/năm. “Khoảng lặng” không dễ chịu nằm ở đây.

Vietcombank vừa quyết định giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm sâu từ 1-1,5%/năm lãi suất cho vay, thế nhưng, với kế hoạch phát hành trái phiếu này họ phải trả lãi suất rất cao.

Trớ trêu, một ngân hàng đang có mặt bằng lãi suất huy động thấp nhất thị trường, phổ biến dưới 6,5%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn của họ cũng cố tìm khách tốt để chào cỡ 6%/năm, vốn có trạng thái dư thừa, nhưng vẫn phải đi vay (qua trái phiếu nói trên) với lãi suất khoảng 7,5-7,7%/năm.

Chưa hết, gánh nặng lãi vay này sẽ tiếp tục kéo dài theo kỳ hạn của trái phiếu, bất chấp Vietcombank có thừa vốn huy động giá thấp đi nữa. Và nếu phải dùng hết kế hoạch phát hành 8.000 tỷ trái phiếu, chi phí trớ trêu đó là đáng kể.

Nếu như cổ đông lớn Nhà nước, đang chiếm tỷ lệ sở hữu chi phối, thể hiện vai trò hỗ trợ tốt hơn cho ngân hàng tăng vốn, cải thiện hệ số CAR, thì đã không phải dùng đến biện pháp tài chính có chi phí trớ trêu đó. Bớt gánh nặng, bước nhanh hơn, nộp ngân sách Nhà nước sẽ tốt hơn. Đây không phải là suy đoán chủ quan, vì năm rồi, Vietcombank đã nộp về ngân sách tới 4.400 tỷ, lớn nhất trong hệ thống. Và năm nay, đây đang là ứng viên sáng giá nhất cho vị trí dẫn đầu lợi nhuận toàn hệ thống.

Nhìn sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cũng không mấy khác biệt về tình cảnh.

Cuối cùng, BIDV cũng đã phải nộp về ngân sách Nhà nước phần cổ tức 2015, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, thay vì có thể tranh thủ nguồn lực này bằng trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Ngân sách Nhà nước đã không nhượng bộ, không hỗ trợ, không thể hiện vai trò là cổ đông lớn nhất, thì BIDV phải tìm cách huy động, tương tự với trái phiếu dài hạn để tính vào vốn cấp 2.

Vẫn là trớ trêu, ngân hàng dư vốn, đang cho vay lãi suất ngắn hạn chỉ khoảng 6%/năm, lại phải đi huy động trái phiếu lãi suất cao vượt trội 7,5-7,7%/năm. Và tương tự Vietcombank, con đường cải thiện CAR của BIDV cũng phải vá víu với chi phí như vậy, càng khó mở rộng kinh doanh để nâng lợi nhuận, tăng nộp ngân sách.

Điểm an ủi ở hướng đi này, có chăng là chờ đợi tương lai. Giả dụ, trong vòng 5 năm tới, cả Vietcombank và BIDV cùng bán vốn cho nước ngoài thành công, hoặc cổ đông Nhà nước “mở lòng” đầu tư thêm vốn, CAR theo đó được cải thiện bền vững, họ có thể mua lại trái phiếu đã phát hành để chủ động cắt gánh nặng chi phí lãi suất cao này.

Đó là hy vọng ở tương lai, tính hiện thực chưa rõ. Còn lúc này, kế hoạch tài chính 2016 của những “ông lớn” này đều cho thấy một thực tế: kỷ luật thu ngân sách, xét riêng ở đây, chặt chẽ đến khắc nghiệt, phải thu và nộp toàn bộ, như không tính toán đến thiệt hơn.

Như vậy liệu có tình huống “tham bát bỏ mâm” không, bởi nếu ngân sách năm nay hỗ trợ họ tăng vốn, nâng cao CAR thì họ sẽ kinh doanh tốt hơn, lợi nhuận tốt hơn và sẽ nộp cho ngân sách nhiều hơn, trước hết là về thuế rồi đến cổ tức?

Tình huống vẫn chỉ là tình huống. Vì hiện BIDV đã buộc phải nộp cổ tức bằng tiền về Bộ Tài chính rồi; kế hoạch bán cổ phần để tăng vốn của Vietcombank cũng mờ dần khả năng được duyệt. Không và khó có phép màu thay đổi ở đây.

Đọc tiếp »

Mỗi năm Việt Nam trả nợ vay ODA khoảng 1 tỷ USD

Chiều 25/10, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) đã tổ chức họp báo chuyên đề giới thiệu nội dung mới về quản lý tài chính các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay của các nhà tài trợ nước ngoài theo Thông tư số 111/2016 mới ban hành của Bộ Tài chính.

Lãi ODA đã vay tăng lên 2-3,5% từ tháng 7/2017

Tại buổi họp báo, ông Hoàng Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, cho biết, trong 10 năm (2005-2015), tổng số vốn ODA của Việt Nam đã ký kết khoảng 45 tỷ USD, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực cân đối tài chính vĩ mô, phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu, nông nghiệp...

Lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, vốn vay ODA vẫn nằm trong hạn mức của Chính phủ. Bình quân dự toán trả nợ gốc và lãi vốn ODA khoảng 1 tỷ USD. Về việc vay nợ mới để trả nợ cũ, ông Hoàng Hải cho rằng nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản cũng làm vậy.

Tuy nhiên, Việt Nam chưa được chuyên nghiệp như các nước trên hàng năm vẫn dùng ngân sách Nhà nước để đáp ứng trả nợ, trong những năm gần đây buộc phải vay mới trả cũ thực hiện để đảm bảo cân đối trả nợ.

Từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm rõ rệt. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp.

Dự kiến đến tháng 7/2017, Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%.

"Ngân hàng thế giới sẽ nhóm họp và ra quyết định Việt Nam cùng một số quốc gia khác có tốt nghiệp IDA (không thuộc nhóm nước thu nhập thấp) hay không. Nếu Việt Nam được bỏ phiếu tốt nghiệp IDA thì sẽ không được vay ODA theo điều kiện", ông Hải cho biết.

Quản lý hiệu quả vốn ODA

Trong bối cảnh Việt Nam bắt đầu bước vào ngưỡng các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, việc huy động các nguồn vốn ODA trở nên khó khăn hơn. Nhằm đảm bảo mục tiêu vay nợ bền vững thì nguồn vốn ODA cũng cần được sử dụng một cách chiến lược và cẩn trọng để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế bởi thực chất, nguồn vốn ODA cũng chính là nợ quốc gia.

Do đó, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02 về tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công. Theo đó, nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các công trình kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch. Tăng dần tỷ lệ cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.

Dựa trên chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài chính đã áp dụng Thông tư 111 từ 30/6/2016 với một số quy định mới như hướng dẫn rõ nội dung và quy trình xác định cơ chế tài chính ngay từ khâu đề xuất chương trình, dự án; Quy định về khâu lập kế hoạch và kiểm soát chi, quản lý giải ngân; Quy định về quy trình kiểm soát chi, đối với vốn ODA, vốn vay ưu đãi áp dụng quy trình chung về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp, thanh toán chi giải phóng mặt bằng...

Ngoài ra Thông tư còn bổ sung hướng dẫn về một số nội dung đặc thù đối với vốn ODA, quy trình hạch toán ngân sách nhà nước mới...

Theo ông Hoàng Hải, việc quy định rõ về quy trình xác định cơ chế tài chính, cơ chế giải ngân theo kế hoạch vốn được giao, quy trình hạch toán ngân sách mới sẽ giúp quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay nước ngoài.

Đọc tiếp »

“Giải tỏa nỗi sợ trách nhiệm để xử lý nợ xấu”

Chiều 26/10/2016, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội thảo với chủ đề “Xử lý nợ xấu - Những nút thắt cần tháo gỡ”. Biết sự kiện này, ông Nguyễn Duy Hưng, người từng nhiều năm làm lãnh đạo tại một số ngân hàng thương mại và là một bạn đọc của VnEconomy, trao đổi thêm một góc nhìn bên lề.

Từ hơn chục năm trước, tại nhiều hội thảo, diễn đàn về xử lý nợ xấu, ông Hưng từng phát biểu, nêu nhiều vướng mắc pháp lý trong khởi kiện, xử lý tài sản đảm bảo, thi hành án…

Đến nay nhìn lại, ông vẫn nản: “Cơ chế chính sách cũng có thay đổi, nhưng về cơ bản các vướng mắc vẫn vậy. Chúng ta cứ xoay quanh nó, rồi lại thêm dăm mười năm nữa may chăng được tháo gỡ thực sự để có thể giúp xử lý nợ xấu”.

Muốn, nhưng không sẵn sàng

Ba năm qua, ông Hưng tự bỏ tiền túi và huy động các nguồn ủy thác tham gia mua bán nợ. Những gì ông chia sẻ là đúc kết thực tế trong quá trình làm việc với các ngân hàng. Và vướng mắc lớn nhất trong xử lý nợ xấu thời gian qua và hiện nay, theo ông, là quan điểm về nợ xấu và vấn đề trách nhiệm.

“Tôi làm việc với nhiều ngân hàng. Họ muốn bán nợ xấu, nhưng lại không sẵn sàng bán. Như trong chứng khoán, bán nợ xấu là hành động cắt lỗ. Ai dám cắt và chịu trách nhiệm cho phần lỗ đó? Thiệt hại từ nợ xấu là tổn thất của ngân hàng, nhưng trách nhiệm sẽ quy về cá nhân liên quan, người cho vay hoặc người bán nợ”, ông đặt vấn đề.

Theo ông, nợ xấu là hàng hóa, nhưng là hàng hóa giảm giá. Bởi nếu vẫn bán đúng giá ban đầu của nó thì không bao giờ bán được. Khi trở thành nợ xấu, giá hàng hóa này bị giảm. Thế nhưng, giả dụ, một khoản nợ 50 tỷ đồng, trở thành nợ xấu và chỉ bán được 30 tỷ đồng, 20 tỷ mất mát đó ai sẽ chịu trách nhiệm?

Trách nhiệm đầu tiên là những người cho vay, các cá nhân liên quan. Nếu bán, cắt lỗ và hiện thực lỗ, mất mát này sẽ quy trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp, có thể là trách nhiệm pháp lý - hình sự hóa các quan hệ dân sự, điều quan ngại nhất trong tâm lý những người làm ngân hàng những năm gần đây, theo nhìn nhận của ông Hưng.

Cũng chính vì quan ngại đó, thị trường mua bán nợ thực sự vẫn thiếu người bán, hàng hóa vẫn hạn chế và chưa hấp dẫn, chưa kích thích để tạo và thu hút những người đi mua. Xử lý nợ xấu bằng hướng này, bằng giải pháp thị trường, vẫn chưa phát triển.

An toàn cho người cắt lỗ?

Với góc nhìn đó, người trong cuộc này cho rằng, nguyên do chính khiến nợ xấu vẫn còn đó, vẫn cao vì đã không để hoặc chưa tạo được điều kiện để thị trường tham gia vào xử lý.

“Trong hoạt động ngân hàng, trong nền kinh tế, nợ xấu phát sinh là bình thường. Dù có nguyên nhân chủ quan, khách quan, có yếu tố tiêu cực, tích cực, nhưng nó là câu chuyện của thị trường và cần được xử lý bằng những giải pháp thị trường, tất nhiên là có sự vận hành của Nhà nước”, góc nhìn trên nêu quan điểm.

Theo đó, nợ xấu được xem là hàng hóa, một loại hàng hóa giảm giá. Nếu có người bán, giá giảm sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh, thị trường và nhà đầu tư sẽ không bỏ qua cơ hội đó. Những vướng mắc kỹ thuật trong xử lý nợ, được nêu lên cả chục năm qua, cũng sẽ phản ánh vào giá. Và khi nợ xấu trở thành cơ hội kinh doanh, tự thân thị trường sẽ hút các nguồn lực chảy vào đây.

Nhưng, như trên, vướng mắc chính vẫn là nỗi sợ trách nhiệm, khiến ngân hàng không sẵn sàng bán cắt lỗ để kích thích các nguồn lực trên thị trường tham gia vào xử lý nợ xấu.

Ý kiến trên cho rằng, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã giảm sốc vấn đề nợ xấu đối với nền kinh tế bằng giải pháp VAMC, thì đến nay cần sử dụng rõ ràng hơn giải pháp của thị trường.

Trước vướng mắc của nỗi sợ trách nhiệm, ông Nguyễn Duy Hưng cho rằng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng, các cá nhân liên quan đối diện với trách nhiệm tổn thất từ nợ xấu, qua chủ trương không hình sự hóa các quan hệ dân sự, tạo cơ chế an toàn cho các quyết định bán nợ xấu - cắt lỗ ở loại hàng hóa giá giảm này.

“Tôi tin rằng, nếu giải tỏa được vấn đề trách nhiệm ở đây, thị trường mua bán nợ sẽ có cơ hội phát triển tốt hơn, việc xử lý nợ xấu sẽ nhanh và thực chất hơn. Dĩ nhiên, đây phải là quá trình xử lý công khai và minh bạch”, ông Hưng kỳ vọng.

Đọc tiếp »

LienVietPostBank gần cán đích lợi nhuận cả năm

Ngày 26/10, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) công bố kết quả kinh doanh cơ bản quý 3 và lũy kế 9 tháng đầu năm 2016.

Thông báo cho biết, tổng lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm của LienVietPostBank đã đạt 865 tỷ đồng, tương đương 94,5% kế hoạch lợi chuận cả năm. Mức lợi nhuận này tăng tấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2015.

Lợi nhuận sau thuế trong 9 tháng năm 2016 của LienVietPostBank theo đó đạt gần 700 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ năm 2015.

Riêng trong quý 3/2016, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 330 tỷ đồng, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước.

Với mức lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2016 và triển vọng lợi nhuận quý 4 này, LienVietPostBank kỳ vọng sẽ đảo chiều được xu hướng suy giảm lợi nhuận trong 4 năm liên tục, kể từ 2012 đến 2015.

Một điểm đáng chú ý trong kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm nay của LienVietPostBank là cho vay khách hàng tăng mạnh, đạt 71.880 tỷ đồng, tăng 29,5% so với đầu năm 2016. Tính đến ngày 30/9/2016, tổng tài sản của ngân hàng đã đạt 133.080 tỷ đồng, huy động vốn đạt 107,053 tỷ đồng, tăng 34%.

Trong quý 3 vừa qua, LienVietPostBank đã đưa ra thị trường sản phẩm chiến lược là ví điện tử Ví Việt. Sản phẩm này đã nhanh chóng đạt trên 500.000 người dùng.

Cũng trong quý 3/2016, LienVietPostBank chính thức ra mắt sản phẩm mới là “Tín dụng Mắc-ca”, sản phẩm tín dụng đầu tiên tại Việt Nam dành cho phát triển cây và ngành công nghiệp mắc-ca.

Đọc tiếp »

KienlongBank báo lỗ quý 3, nợ xấu tăng nhanh

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long (KienlongBank) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2016. Theo đó, nhà băng có lãi thuần đạt 172 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ. Chi phí hoạt động lên tới 153,6 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ.

Do đó, ngân hàng lỗ gần 9 tỷ đồng trong quý 3, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 21,5 tỷ đồng.

Luỹ kế 9 tháng năm 2016, lợi nhuận sau thuế của KienlongBank đạt 15,8 tỷ đồng, giảm 90% so với cùng kỳ.

Tại ngày 30/9/2016, tổng tài sản của ngân hàng đạt 26.143 tỷ đồng, tổng vốn huy động đạt 22.273 tỷ đồng, cho vay khách hàng đạt 17.253 tỷ đồng.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của KienlongBank tăng từ 1,12% hồi đầu năm lên 1,47% tính đến cuối tháng 9/2016.

Trong đó, nhóm nợ có khả năng mất là 187 tỷ đồng, tăng gần 55% so với cùng kỳ.

Theo kế hoạch được đại hội cổ đông đặt ra năm 2016, KienlongBank dự kiến đạt lợi nhuận trước thuế khoảng 330 tỷ đồng.

Mới đây, KienlongBank đã công bố chốt danh sách cổ đông ngày 15/10 để làm thủ đăng ký chứng khoán tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam và đăng ký giao dịch trên sàn UpCoM.

Ông Võ Quốc Thắng hiện nắm vai trò Chủ tịch Hội đồng Quản trị KienlongBank nhưng không nắm cổ phiếu tại nhà băng này. Con trai của ông là Võ Quốc Lợi hiện nắm chức Phó giám đốc chi nhánh Nhà Bè, nắm 14 triệu cổ phiếu, tương ứng 4,58% vốn.

Ông Thắng sinh năm 1967 tại Long An. Ông Thắng nổi tiếng trên cả lĩnh vực kinh doanh và bóng đá. Trong kinh doanh, ông Thắng đang cùng lúc giữ chức Chủ tịch của Đồng Tâm và Ngân hàng Kiên Long.

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Ngân hàng cổ phần đầu tiên nhập cuộc giảm lãi suất

Ngày 29/9, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) có văn bản chỉ đạo toàn hệ thống về việc hạ lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng.

Đây là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên (không có tỷ lệ sở hữu Nhà nước chi phối) có quyết định giảm lãi suất huy động, nhập cuộc với quyết định đầu tuần này của các ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank).

Thông cáo LienVietPostBank cho biết, mức lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng của ngân hàng này cũng bằng mức giảm của 4 ngân hàng nói trên, từ 0,3-0,5%/năm.

Cùng đó, LienVietPostBank cho biết sẽ tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong tháng 10/2016.

“Đây là động thái của LienVietPostBank nhằm hưởng ứng tích cực chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc nghiên cứu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế”, thông cáo viết.

Tính đến ngày 31/8/2016, vốn điều lệ của LienVietPostBank là 6.460 tỷ đồng, tổng tài sản trên 130.408 tỷ đồng, dư nợ tín dụng gần 73.350 tỷ đồng, huy động vốn đạt gần 120.455 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 8 tháng đầu năm đạt trên 908 tỷ đồng.

Hiện LienVietPostBank là ngân hàng thương mại cổ phần có mạng lưới quy mô lớn nhất tại Việt Nam với hệ thống hơn 130 chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng và quyền khai thác trên 10.000 điểm giao dịch bưu điện đến từng huyện, xã, vùng sâu, vùng xa trên cả nước.

Đọc tiếp »

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập”

“Tính minh bạch và đơn giản cao là những chỉ tiêu then chốt của một hệ thống thuế có hiệu quả trên thế giới, và Việt Nam đương nhiên cũng không nằm ngoài xu hướng này”.

Đây là chia sẻ của ông Phan Vũ Hoàng, Phó tổng giám đốc dịch vụ Tư vấn Thuế của Deloitte Việt Nam bình luận về xu hướng cải cách hệ thống thuế theo hướng tăng cường minh bạch hóa và đơn giản thủ tục hành chính thuế mà cơ quan thuế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang triển khai áp dụng.

Theo ông Hoàng, một hệ thống quản lý với tính minh bạch cao, trong đó người nộp thuế dễ dàng tiếp cận những thông tin và hướng dẫn cụ thể và rõ ràng từ cơ quan thuế/hải quan, sẽ giúp nâng cao tính công bằng trong xử lý thuế, từ đó khuyến khích sự tuân thủ một cách tự nguyện, tự giác của người nộp thuế.

Tương tự, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng hướng đến việc tạo điều kiện cho người nộp thuế tự giác tuân thủ quy định tốt hơn.

Về lâu dài, điều này cũng sẽ giúp cho việc quản lý của cơ quan thuế/hải quan ngày càng đơn giản, hiệu quả. Một báo cáo năm 2013 của Ngân hàng Thế giới, qua 8 năm nghiên cứu cho thấy việc đơn giản hóa thủ tục thuế là một biện pháp hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế (thậm chí hiệu quả hơn việc cắt giảm thuế suất).

Ở Việt Nam, trong chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 có nêu rất rõ mục tiêu: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện…”.

Trong 5 năm vừa qua, chúng tôi đánh giá rất cao những nỗ lực của ngành thuế để cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục kê khai thuế, ví dụ như việc cắt giảm 420 giờ thực hiện thủ tục về thuế.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn còn nhiều việc cần làm đối với hệ thống thuế Việt Nam, để thực sự bắt kịp được với yêu cầu hội nhập kinh tế sâu và rộng sắp tới, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, cho nhà đầu tư, và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế với đúng tiềm năng của đất nước.

Minh bạch không đơn giản

Theo kinh nghiệm tư vấn thuế của ông, Việt Nam cần làm gì để bắt kịp xu hướng của toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới mà trong đó minh bạch hóa đóng vai trò quyết định trong tiến trình hội nhập?

Việc minh bạch hóa và đơn giản hóa hệ thống thuế không hề đơn giản với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Có một số biện pháp mà ngành thuế Việt Nam có thể xem xét như sau.

Một là: tiếp tục hoàn thiện hơn chính sách thuế, đặc biệt là khung pháp lý. Hiện nay các quy định thuế của Việt Nam nghiêng về hướng quy định cách xử lý cho các trường hợp, nhưng lại thiếu những quy định khung để giải quyết các vướng mắc không có trong quy định.

Ví dụ như định nghĩa về “tiêu dùng tại Việt Nam” đối với thuế giá trị gia tăng cho dịch vụ xuất khẩu - do không có định nghĩa này, ngành thuế phải ban hành hàng trăm công văn hướng dẫn cho từng vướng mắc cụ thể của doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn còn hàng ngàn doanh nghiệp chưa biết xử lý như thế nào mà không dám hỏi vì sợ câu trả lời sẽ không như ý muốn của mình.

Những vướng mắc này có thể xử lý, nếu có một định nghĩa rõ ràng về “tiêu dùng tại Việt Nam” trong luật.

Hai là: cần nghiên cứu và áp dụng thực tiễn thuế tốt nhất trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Việc xử lý những vướng mắc, khúc mắc của người nộp thuế cần đảm bảo hợp lý, hợp tình, công bằng, theo đúng đạo lý thuế quốc tế chứ không thể chỉ theo ý chí chủ quan của cơ quan thuế.

Ví dụ như trong nhiều cuộc thanh kiểm tra thuế gần đây, cơ quan thuế ở một số địa phương trong nhiều trường hợp ấn định thu nhập chịu thuế dựa trên những những số liệu thiếu thuyết phục, thiếu căn cứ vững chắc, và người nộp thuế cũng không có cơ hội phản hồi, giải thích.

Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, ngành thuế cần nghiên cứu và phổ biến trong ngành những nguyên tắc, phương án xử lý những giao dịch phức tạp dựa trên thực tiễn thuế quốc tế, ví dụ có thể tham khảo những hướng dẫn của OECD.

Ba là: cơ quan thuế cần tăng cường và thường xuyên trao đổi với người nộp thuế, bổ sung thêm các kênh tuyên truyền, thông báo, trao đổi với người nộp thuế để nâng cao hiểu biết, nhận thức của người nộp thuế.

Ví dụ, cơ quan thuế có thể xây dựng những cơ sở dữ liệu tập trung và công khai về những thắc mắc thường gặp của người nộp thuế, tổ chức thường xuyên hơn những buổi thảo luận /đối thoại với người nộp thuế, tiếp thu ý kiến đóng góp của các hiệp hội, các chuyên gia tư vấn thuế trong những buổi hội thảo định kỳ về chính sách, nhất là trước khi đưa ra những quy định mới.

Kiến thức và kinh nghiệm

Xin ông chia sẻ quan điểm về tầm quan trọng của các công ty tư vấn thuế ở Việt Nam, đặc biệt trong môi trường thương mại tự do ngày càng phát triển như hiện nay?

Từ khi trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN năm 1995, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước lớn, và năm 2015 đã đánh dấu bước đi lớn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế của các châu lục khác khi hoàn tất ký kết tham gia TPP, EVFTA.

Việc ký kết nhiều hiệp định tự do sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được thị trường thế giới một cách thuận lợi hơn khi các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ được tạo cơ hội thuận lợi hơn để tiếp cận thị trường nội địa.

Đồng thời, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cũng được dự kiến sẽ có những bước đột phá ngoạn mục.

Khi tham gia vào các hiệp định, đặc biệt là TPP, Việt Nam sẽ phải cải cách nhiều quy định, cơ sở pháp lý theo yêu cầu của TPP và các FTA. Trong bối cảnh đó, cả doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đều cần trang bị cho mình những kiến thức và kinh nghiệm mới về hệ thống thuế và hải quan, không chỉ của Việt Nam mà của cả rất nhiều quốc gia khác.

Ở mỗi quốc gia, hệ thống văn bản pháp quy về thuế và hải quan dù có thể có những nguyên tắc chung, song vẫn có rất nhiều những điểm khác biệt về chi tiết. Ví dụ yêu cầu về xuất xứ, mẫu biểu kê khai, phương pháp xác định giá thị trường để tính thuế... mỗi nước có những quy định khác nhau.

Với lượng thông tin quá nhiều và phức tạp như vậy, có lẽ ít có doanh nghiệp nào có đủ nguồn lực để có thể nắm vững tất cả những quy định đó.

Trong bối cảnh đó, vai trò của những đơn vị tư vấn thuế có kinh nghiệm hoạt động trên toàn cầu và am hiểu thị trường nội địa như Deloitte sẽ là quan trọng với các doanh nghiệp.

Với kinh nghiệm lâu năm và kiến thức toàn cầu cùng sự am hiểu sâu sắc về luật pháp và môi trường kinh doanh tại Việt Nam, chúng tôi có thể chia sẻ và tư vấn cho các doanh nghiệp để trước hết đáp ứng được các điều kiện, tuân thủ đúng các yêu cầu, quy định về thuế, tiến tới tận dụng được tối đa những lợi ích mà các hiệp định thương mại tự do đem lại.

Qua việc được tư vấn với nghiệp vụ chuyên môn, được lập kế hoạch hợp lý theo những mô hình cân đối giữa chiến lược kinh doanh và nghĩa vụ tuân thủ thuế, được rà soát và chỉnh lý thường xuyên theo thực tiễn hoạt động và quy định pháp luật, doanh nghiệp có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh chính của mình mà không phải phân bổ nguồn lực để tìm hiểu những lĩnh vực trên, trong khi vẫn vừa đảm bảo tính tuân thủ cao về thuế, vừa có thể tối đa hóa những lợi ích được hưởng về thuế.

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập” 1
Đọc tiếp »

Cơ hội nào cho PVcomBank?

Ngày 1/10/2016, Ngân hàng Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank) tròn ba năm ra mắt thị trường, ba năm thực hiện tái cơ cấu. Gánh nặng còn lớn, nhưng phía trước, cơ hội thực sự phục hồi đang mở rộng hơn.

Cơ hội được xét đến khi những gì khó khăn nhất PVcomBank đã vượt qua, đã khống chế và xử lý cơ bản những vấn đề trọng yếu ở những năm đầu tái cơ cấu trong điều kiện khó khăn nhất.

Tiến trong thế khó

Hơn ba năm trước, hàng tháng trời lãnh đạo Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí (PVFC) liên tục phải xách hàng ki lô gam tài liệu đến từng đầu mối chuyên trách để giải trình, báo cáo và thuyết phục về triển vọng thành công kế hoạch hợp nhất với Ngân hàng Phương Tây (Western Bank).

Vì bối cảnh và thực trạng của hai bên có quá nhiều vấn đề đặt ra, cũng như chưa từng có tiền lệ hợp nhất một công ty tài chính lớn với một ngân hàng thương mại. Điều gần như duy nhất được khẳng định lúc đó: nếu không hợp nhất, cả PVFC và Western Bank đều rất khó tồn tại.

Sự lung lay của hai định chế tài chính có quy mô tổng tài sản lên tới khoảng 100.000 đồng này, nếu không sớm ổn định, chắc chắn sẽ ảnh hưởng và tạo hiệu ứng tiêu cực trong hệ thống.

Phương án hợp nhất được chốt lại, như một lựa chọn để khoanh vùng rồi tìm cách khắc phục rủi ro. Xa hơn, và giá trị về sau, là tạo ra cơ hội để tin tưởng về thành công tái cơ cấu, về triển vọng phục hồi.

Ngày 1/10/2013, thương hiệu PVcomBank chính thức ra mắt, qua hợp nhất. Một thương hiệu ngân hàng mới hoàn toàn, nhưng nặng nhiều vấn đề cũ. Với thị trường, sức lan tỏa của thương hiệu này trong nhận diện được thúc đẩy khá nhanh.

Nhận biết đầu tiên của một ngân hàng tiến trong thế khó, rất khó, là về thương hiệu. PVcomBank tập trung đầu tư thiết lập một hình ảnh mới, thuê tư vấn nước ngoài, bảo hộ tại hơn 100 quốc gia. Song song là những bước đi ấn tượng trong quảng bá, như việc nhanh chóng chiếm quyền xuất hiện trên cầu Nhật Tân - cửa ngõ quan trọng và thu hút nhất của Thủ đô; độc quyền xuất hiện trên thẻ lên máy bay tất cả các chuyến, chặng của Vietnam Airlines để tìm cơ hội gẫn gũi với khách hàng tiềm năng…

PVcomBank là ngân hàng gần như hoàn toàn mới. Vì trước đó, cơ cấu chiếm “tỷ trọng lớn” là PVFC, định chế tài chính rất hạn chế trong huy động, phát triển các sản phẩm dịch vụ khách hàng cá nhân. Nhưng, trong thế khó đó, họ có những bước đi chiến lược khá nhanh.

Phải mất ba năm, công nghệ ngân hàng lõi mới chuẩn chỉnh sau hợp nhất. Song PVcomBank lại là một trong những ngân hàng thương mại sớm phát triển nhanh và ấn tượng các tiện ích ngân hàng hiện đại. Ví như, nếu trải nghiệm sản phẩm PV Mobile Banking, hàng trăm tiện ích và giao dịch ngân hàng, thanh toán… tích hợp và xử lý nhanh chóng, hẳn sẽ cho thấy đây là một trong những lựa chọn tối ưu trên thị trường hiện nay.

Như trên, từng hạn chế về nền tảng khách hàng cá nhân khi hợp nhất, PVcomBank nhanh chóng tạo và mở rộng thị phần. Điển hình, tại thời điểm hợp nhất, ngân hàng này chỉ có 13.939 tỷ đồng vốn dân cư, đến nay đã đạt tới 26.953 tỷ đồng.

Sự mở rộng nhanh chóng nền tảng khách hàng cá nhân tạo bước tiến cần thiết cho yêu cầu phát triển một ngân hàng bán lẻ. Quan trọng hơn, điểm chuyển biến này giúp PVcomBank từng bước ổn định và đảm bảo thanh khoản tốt, đặc biệt chỉ số an toàn vốn (CAR) đạt được 11,6% (cao hơn mức 9% theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước).

Cơ hội từ cơ chế

Tuy nhiên, giá trị CAR nói trên, hay tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới ngưỡng 3% chỉ phản ánh sự ổn định, cải thiện tương đối. PVcomBank, cũng như nhiều ngân hàng thương mại hiện nay đang còn gánh nặng các vấn đề tài chính, mà các chỉ số sức khỏe đó chưa nói lên được tất cả.

Điểm chung ở đây, cơ chế chính sách đã tạo điều kiện, cơ hội để các ngân hàng trải đều gánh nặng ra để từng bước xử lý, tránh dồn lại mà dẫn đến đổ vỡ. Mẫu số chung điển hình như chính sách cho cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm, ứng xử với nợ xấu của Vinashin, Vinalines… Vấn đề còn lại là họ nắm được cơ hội của cơ chế để chuyển tiếp đến cơ hội phục hồi hay không?

Với PVcomBank, trước hết, cơ hội trên tạm đỡ cho gánh nặng lớn, để dồn sức xử lý một gốc rễ căn bản hơn nữa: ảnh hưởng tiêu cực của cổ đông lớn, nhóm cổ đông cùng những vi phạm về tỷ lệ sở hữu trong cơ cấu, gây hệ quả xấu cho hoạt động.

Sau ba năm tái cơ cấu, yêu cầu của Cơ quan Thanh tra Ngân hàng Nhà nước về vấn đề cơ cấu cổ đông, tỷ lệ sở hữu tại Western Bank đến nay đã được PVcomBank giải quyết triệt để. Ít nhất, ở khía cạnh này, ngân hàng đã lành mạnh hơn.

Như trên, cơ chế chính sách cho cơ cấu lại nợ tạo điều kiện để PVcomBank cân đối lại tài chính. Một sự tạm giãn để từng bước ghi nhận sát thực hơn trong tương lai. Và ngày 10/3/2016, Thủ tướng Chính phủ ra chủ trương cho phép kéo dài quá trình tái cơ cấu đến 2020, cũng là một điều kiện về thời gian. Đề án tiếp tục tái cơ cấu được Ngân hàng Nhà nước phê chuẩn.

Nhưng, để được tạo điều kiện như vậy, kết quả tái cơ cấu, về mặt tài chính phải tạo được kết quả thực tế và triển vọng.

Bước đầu PVcomBank cho kết quả khả quan. Trong ba năm đầu tái cơ cấu, họ đã thu hồi nợ xấu và tái cấu trúc 3.000 tỷ đồng, trong đó đáng chú ý là thu hồi nợ nhóm liên quan đến Western Bank trước đây là 1.238 tỷ đồng, Vinashin là 224 tỷ đồng, Vinalines 1.208 tỷ đồng, nhóm PVC 142 tỷ đồng…

Nếu tại thời điểm hợp nhất, Western Bank gặp khó khăn thanh khoản, thì PVcomBank sau hợp nhất, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, thanh khoản luôn được duy trì tốt, cũng như đã chủ động hơn trong việc cơ cấu và dịch chuyển tài sản sang những khoản có tính chuyển đổi cao, an toàn như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.

Hay sau hợp nhất, chiến lược phát triển tín dụng của PVcomBank đã cẩn trọng hơn nhiều, theo quan điểm “nắm đằng chuôi” các tài sản đảm bảo để hạn chế rủi ro.

Và như trên, nỗ lực xây dựng và phát triển thương hiệu, tăng cường mở rộng tiếp cận khối khách hàng cá nhân qua đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ giúp PVcomBank củng cố nền tảng khách hàng, tạo cơ sở để hướng tới mục tiêu thực sự phục hồi.

Tất nhiên, trong mục tiêu đó, bên cạnh cơ hội tạo điều kiện từ cơ chế chính sách, cổ đông lớn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), nắm 52% vốn, vẫn là một điểm tựa trách nhiệm, hỗ trợ trong quản lý vốn và phát triển kinh doanh, trước khi chuyển giao phần vốn sang Ngân hàng Nhà nước đại diện khi kết thúc tái cơ cấu.

Lộ trình đã định. Sau ba năm tái cơ cấu, PVcomBank có 5 năm trước mắt để tiếp tục vượt khó và khẳng định. Cơ hội còn phía trước, và ít nhất giai đoạn rủi ro nhất, khó khăn nhất họ đã vượt qua.

Đọc tiếp »

Bảo hiểm VietinBank chuyển đổi mô hình tổ chức

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Giá vàng SJC chạm đáy 3 tháng

Xu hướng giảm những ngày gần đây của giá vàng thế giới đã kéo giá vàng miếng trong nước sáng nay (3/10) về sát mốc 36 triệu đồng/lượng. Giá USD tự do và ngân hàng tiếp tục xu hướng ổn định trên ngưỡng 22.300 đồng.

Lúc hơn 11h trưa nay, Tập đoàn DOJI niêm yết giá vàng SJC cho thị trường Hà Nội ở mức 36,02 triệu đồng/lượng (mua vào) và 36,08 triệu đồng/lượng (bán ra). So với cuối tuần, giá vàng SJC tại doanh nghiệp này hiện giảm 20.000 đồng/lượng cả ở chiều mua và bán.

Thị trường vàng miếng trầm lắng nên các tiệm vàng lớn tại Hà Nội áp dụng chênh lệch giá mua-bán khá thấp, phổ biến từ 50.000-70.000 đồng/lượng để khuyến khích giao dịch.

Tại thị trường Tp.HCM cùng thời điểm trên, Công ty SJC báo giá vàng miếng cùng thương hiệu ở mức 35,9 triệu đồng/lượng và 36,12 triệu đồng/lượng, tương ứng giá mua và bán.

Biểu đồ giá vàng của DOJI cho thấy vàng miếng SJC đang rẻ nhất kể từ đầu tháng 7. Giảm nhỏ giọt nhưng liên tục, giá vàng trong nước đã hạ khoảng 200.000 đồng/lượng trong vòng 1 tuần trở lại đây.

Giá vàng trong nước đang chịu sức ép giảm chủ yếu từ giá vàng thế giới. Lúc hơn 11h trưa nay theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay tại thị trường châu Á giảm 0,5 USD/oz so với đóng cửa cuối tuần trước tại New York, còn 1.316,4 USD/oz.

Phiên hôm thứ Sáu, giá vàng giảm 4 USD/oz, chốt ở 1.316,9 USD/oz.

Theo giới phân tích, giá vàng đang chịu sức ép giảm khi ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton có cơ hội thắng cử cao hơn trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào ngày 8/11 so với đối thủ Cộng hòa Donald Trump. Nếu đắc cử, bà Clinton nhiều khả năng duy trì các chính sách hiện tại, trong khi một chiến thắng thuộc về ông Trump có thể dẫn tới những xáo trộn lớn trong nền kinh tế Mỹ.

Khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất vào cuối năm nay cũng gây sức ép giảm giá cho vàng.

Tuy nhiên, mùa cưới ở Trung Quốc và mùa lễ hội cuối năm ở Ấn Độ được dự báo sẽ là những nhân tố quan trọng đẩy nhu cầu vàng vật chất gia tăng, từ đó nâng đỡ giá kim loại quý này.

Trong thời gian tới, những yếu tố hàng đầu tác động đến giá vàng được cho sẽ tiếp tục là tình hình kinh tế và diễn biến bầu cử ở Mỹ.

Hãng tin Reuters cho biết, trong tuần tính đến ngày 27/9, giới đầu cơ vàng ở Mỹ lần đầu tiên trong 3 tuần tăng nắm giữ các hợp đồng đầu cơ vàng giá lên. Trong khi đó, quỹ giao dịch hoán đổi (ETF) vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust hôm thứ Sáu tuần trước bán ròng 0,13% khối lượng nắm giữ, giảm mức nắm giữ về gần 948 tấn.

So với thời điểm cách đây 1 tuần, giá USD tự do và ngân hàng đã giảm nhẹ 5-10 đồng, nhưng nhìn chung vẫn duy trì xu hướng ổn định.

Giá USD tự do tại Hà Nội sáng nay phổ biến ở mức 22.290 đồng (mua vào) và 22.305 đồng (bán ra). Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá ngoại tệ này ở các mức tương ứng lần lượt là 22.265 đồng và 22.335 đồng.

Đọc tiếp »

Ngân hàng có thể đổi nợ xấu nhất thành vốn góp

Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo hướng dẫn việc góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng, trong đó có phần liên quan đến hoán đổi nợ xấu.

Cụ thể, dự thảo thông tư này có mục riêng quy định về việc hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng tại doanh nghiệp, sau khi đã nghiên cứu, rà soát quy định của pháp luật và thực tế xử lý trong thời gian qua.

Theo đó, dự thảo thông tư trên đưa ra quy định, các tổ chức tín dụng được thực hiện hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, nhưng phải đảm bảo các điều kiện: chỉ được thực hiện đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro; tổng mức góp vốn, mua cổ phần dưới mọi hình thức không vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại, không vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính.

Các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trước và sau khi hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, trừ trường hợp đặc biệt khi các tổ chức tín dụng đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Sau khi hoàn thiện dự thảo, thông tư trên ban hành cũng là sự cụ thể hóa cơ chế quy định về hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần từ đầu mối cơ quan quản lý là Ngân hàng Nhà nước.

Trước đó, cơ chế này cũng đã có trong Nghị định số 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, mà qua đó, từ ngày 1/9/2015, các doanh nghiệp được phép chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy khoản nợ của chủ nợ.

Trước khi có các quy định pháp lý trên, thực tế cũng đã phát sinh nhu cầu này. Như cuối năm 2014, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) đã xin ý kiến Ngân hàng Nhà nước về việc tham gia làm cổ đông chiến lược khi cổ phần hóa các cảng thành viên trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) bằng toàn bộ giá trị khoản vay trị giá 5.000 tỷ đồng.

Đọc tiếp »

Thống đốc vẫn muốn cấm kinh doanh vàng tài khoản

“Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gọi điện cho tôi, và đề nghị vẫn cấm kinh doanh vàng tài khoản”. Thông tin này được Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết trong phiên họp sáng 3/10 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Hiếm có báo cáo thẩm tra nào dài đến 17 trang như báo cáo thẩm tra về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 được bà Nga trình bày tại đây.

Liên quan đến đề xuất bãi bỏ điều 292 về tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông bà Nga cho biết đa số ý kiến tại cơ quan thẩm tra tán thành.

Tờ trình của Chính phủ chỉ nêu bãi bỏ, nhưng bản thuyết minh chi tiết trong hồ sơ dự án luật thì nêu lý do bãi bỏ điều 292 rất chi tiết và rất thuyết phục, bà Nga nói thêm.

Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị giữ lại và đưa vào các chương tương ứng quy định hành vi cấm kinh doanh vàng tài khoản, kinh doanh đa cấp bất chính… trên mạng máy tính, mạng viễn thông vì phạm vi ảnh hưởng, tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, hậu quả lớn, rất khó khắc phục cần phải có quy định để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời sửa đổi lại cấu thành: mức thu lợi bất chính, doanh thu… cho phù hợp.

Bà Nga cho biết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã trực tiếp đề nghị giữ lại quy định cấm kinh doanh vàng trên tài khoản.

Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước đều đề nghị giữ lại quy định với kinh doanh vàng tài khoản và kinh doanh đa cấp ở điều 292, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết thêm.

Cũng đồng ý với lập luận thuyết phục của Chính phủ về lý do bãi bỏ điều 292, song Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho rằng cần giữ lại hai hành vi là kinh doanh vàng trên tài khoản và kinh doanh đa cấp bất chính vì nguy hiểm cho xã hội cần tiếp tục đấu tranh.

Nhấn mạnh “cơn ác mộng đa cấp” ở các vùng quê nghèo đã khiến cử tri kiến nghị kéo dài, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải tha thiết đề nghị giữ nguyên quy định cấm đối với bán hàng đa cấp trên mạng tại bộ luật.

Cùng với bãi bỏ điều 292, nhiều nội dung Chính phủ muốn sửa đổi, bổ sung cũng nhận được sự tán thành của cơ quan thẩm tra.

Theo Chủ nhiệm Lê Thị Nga, đa số ý kiến Uỷ ban Tư pháp tán thành với việc cần có quy định miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tiễn như Chính phủ trình.

Tuy nhiên, đối với trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự khi “pháp nhân thương mại tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước thừa nhận” thì chưa đảm bảo tính nghiêm minh.

Nhất là trong điều kiện pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường đang có xu hướng gia tăng và ngày càng nghiêm trọng như hiện nay.

Đồng thời, cũng không đảm bảo công bằng về chính sách hình sự đối với cá nhân vì theo quy định tại Điều 84 thì tình tiết “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong khi đó, cũng chỉ với tình tiết này pháp nhân thương mại lại có thể được miễn trách nhiệm hình sự là bất hợp lý.

Đề xuất lấy lại dấu hiệu “bỏ trốn” quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 vào cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm tài sản của Chính phủ cũng được Uỷ ban Tư pháp nhất trí.

Song, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” là đã đầy đủ, nên không cần phải quy định dấu hiệu “bỏ trốn” vào cấu thành cơ bản của điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông

1. Người nào cung cấp một trong các dịch vụ sau đây trên mạng máy tính, mạng viễn thông không có giấy phép hoặc không đúng nội dung được cấp phép, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm:

a) Kinh doanh vàng trên tài khoản;

b) Sàn giao dịch thương mại điện tử;

c) Kinh doanh đa cấp;

d) Trung gian thanh toán;

đ) Trò chơi điện tử trên mạng;

e) Các loại dịch vụ khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định của pháp luật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Có tính chất chuyên nghiệp;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội trong trường hợp thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên hoặc có doanh thu 5.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Đọc tiếp »

Ngày đầu khoán xe công: Thứ trưởng bắt taxi, Chủ tịch “quá giang” con gái

Chính sách khoán xe công của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 1/10 vừa qua, tuy nhiên vì ngày đầu áp dụng trùng với dịp cuối tuần nên đến ngày 3/10, các thứ trưởng và tổng cục trưởng của bộ này mới bắt đầu thực hiện chính sách khoán xe công.

Theo ghi nhận của VnEconomy, thay vì có xe biển xanh, lái xe đưa đón từ nhà riêng đến cơ quan như trước đây, nay thì các vị thứ trưởng đã lựa chọn cho mình những phương tiện di chuyển khác.

Cụ thể, Thứ trưởng Vũ Thị Mai, Thứ trưởng Trần Hữu Chí và Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn đều chọn taxi để đi làm.

Trong khi đó, Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải, Thứ trưởng Trần Xuân Hà và Thứ trưởng Trần Văn Hiếu bước xuống sảnh Bộ Tài chính từ những chiếc ôtô biển trắng, trong đó có xe do họ tự lái và có những chiếc xe được thuê theo tháng của đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải…

Việc áp dụng khoán xe công tại Bộ Tài chính trước mắt chỉ áp dụng cho cung đường đi làm hàng ngày từ nhà đến cơ quan. Trao đổi với VnEconomy, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn vui vẻ cho biết, ông sẽ sử dụng taxi là phương tiện đi lại giữa nhà riêng và cơ quan.

Trong khi đó, Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Vũ Bằng cho biết ông vừa “quá giang” xe con gái lên cơ quan. Nếu như con gái bận thì người đứng đầu Ủy ban Chứng khoán sẽ chủ động đi taxi.

Ông Bằng nhận định việc khoán xe công không có gì phiền hà, và đây là một chính sách hữu ích, giúp tiết kiệm trong bối cảnh ngân sách Nhà nước còn khó khăn. Trước mắt nên thí điểm cung đường từ nhà lên cơ quan và ngược lại. Sau đó, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục đánh giá và áp dụng rộng rãi dựa trên hiệu quả mang lại.

Một lãnh đạo khác của Bộ Tài chính cho biết, theo quan sát của ông, các thứ trưởng của Bộ khá vui vẻ thực hiện và chưa có phàn nàn, bất tiện gì xung quanh việc di chuyển từ nhà đến cơ quan. Cũng theo vị này, trước khi khoán xe công, nhiều vị lãnh đạo Bộ Tài chính đã chủ động lái xe riêng lên cơ quan để giải quyết công việc.

Từ 1/10, theo Quyết định số 1997/QĐ-BTC, Bộ Tài chính áp dụng chế độ khoán kinh phí sử dụng xe công đối với các chức danh thứ trưởng, chức danh lãnh đạo có hệ số phụ cấp chức vụ 1,25 (tổng cục trưởng và tương đương) thuộc Bộ. Đơn giá sẽ áp theo giá taxi, cao nhất là 15.000 đồng/km.

Cụ thể, các thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Trần Xuân Hà, Trần Hữu Chi có khoảng cách di chuyển khoảng 15 km, 22 ngày làm việc, mức khoán là 9,9 triệu đồng/tháng.

Các thứ trưởng Trần Văn Hiếu, Vũ Thị Mai có khoảng cách di chuyển 8 km, nên mức khoán là 5,3 triệu đồng. Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải có khoảng cách khoảng 6 km, mức khoán là gần 4 triệu đồng một tháng.

Theo tính toán, tiền xe đưa đón cho 6 vị thứ trưởng là 44,2 triệu đồng một tháng.

"Việc khoán xe công sẽ tiết kiệm hơn nhiều so với quy định cũ. Bộ Tài chính đi tiên phong trong việc này. Tuy nhiên để thận trọng, trước mắt Bộ áp dụng khoán xe đưa đón từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại. Sẽ có vấn đề phát sinh về lái xe, số lượng xe. Anh em cán bộ lái xe còn ở đó, giải tán ngay không được. Hiện đi công tác tới đâu vẫn phải bố trí xe công”, Cục trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) Trần Đức Thắng nói.

Báo cáo tài sản Nhà nước năm 2015 của Chính phủ cho biết, tổng số xe ôtô công của cả nước là 37.772 chiếc, với tổng nguyên giá gần 23.000 tỷ đồng.

Trong đó, xe phục vụ chức danh 900 chiếc (các chức danh có hệ số 0,7 trở lên được sử dụng xe công và từ 1,25 trở lên thì được đưa đón), xe phục vụ công tác chung 23.959 chiếc và xe chuyên dùng 12.913 chiếc. Sau thời gian sử dụng, quỹ xe công có tổng giá trị còn lại theo sổ kế toán là 6.721 tỷ đồng, bằng khoảng 29% tổng nguyên giá.

Đọc tiếp »

Ngân hàng 0 đồng có thể là trọng tâm kiểm toán 2017

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Sắp có loạt giải pháp thuế hỗ trợ doanh nghiệp

Phó thủ tướng Vương Đình Huệ vừa có chỉ đạo đối với dự thảo nghị quyết về một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

Theo ý kiến của Phó thủ tướng, việc ban hành dự thảo nghị quyết là phù hợp với chủ trương quy định tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Do đó, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương hoàn chỉnh lại dự thảo nghị quyết theo hướng rà soát, thu hẹp phạm vi áp dụng để bảo đảm đúng với tinh thần của Nghị quyết số 35/NQ-CP; lựa chọn những nội dung cấp thiết cần tháo gỡ ngay, áp dụng trong thời gian ngắn, trong đó có báo cáo về vướng mắc hiện hành của chính sách tiền thuê đất áp dụng đối với doanh nghiệp.

Bộ Tài chính báo cáo, xin ý kiến Chính phủ đối với những nội dung là chính sách cần sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để áp dụng lâu dài. Các giải pháp đề xuất áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp công nghệ thông tin phải thống nhất với quy định trong dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trường hợp Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa không quy định về tiêu chí và ưu đãi thuế, bổ sung các quy định này tại dự thảo nghị quyết để kịp thời thực hiện trong các năm 2017, 2018. Giao Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật về thuế để áp dụng lâu dài.

Không quy định việc bù trừ thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản với lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Bộ Tài chính thực hiện tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 32/2013/QH13, trong đó có vấn đề này để kiến nghị Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung luật nếu cần thiết.

Phó thủ tướng cũng đồng ý về chủ trương xóa nợ tiền chậm nộp đối với người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước, có nguồn từ ngân sách Nhà nước nhưng không được Nhà nước thanh toán theo tiến độ dẫn đến phát sinh tiền chậm nộp, tiền phạt chậm nộp.

Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Phó thủ tướng, tại nghị quyết này không quy định về xóa nợ, khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với trường hợp giải thể, phá sản, bỏ kinh doanh, vì đây là vấn đề quản lý thuế, không liên quan đến khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Trường hợp cần thiết thì quy định ở văn bản khác.

Mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư, cải tạo chung cư cũ là 15% nếu bảo đảm hạch toán riêng, dự án được triển khai, thực hiện trong các năm 2017, 2018.

Phó thủ tướng yêu cầu giải trình rõ tác động của giải pháp giảm 50% thuế thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân là nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin thuộc lĩnh vực công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản đối trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Trường hợp cần thiết thì chỉ áp dụng đối với cá nhân làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngành, lĩnh vực thực sự cần khuyến khích trong các năm 2017, 2018. Về lâu dài, cần đánh giá để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp.

Đọc tiếp »