Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Thống đốc vẫn muốn cấm kinh doanh vàng tài khoản

“Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gọi điện cho tôi, và đề nghị vẫn cấm kinh doanh vàng tài khoản”. Thông tin này được Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết trong phiên họp sáng 3/10 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Hiếm có báo cáo thẩm tra nào dài đến 17 trang như báo cáo thẩm tra về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 được bà Nga trình bày tại đây.

Liên quan đến đề xuất bãi bỏ điều 292 về tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông bà Nga cho biết đa số ý kiến tại cơ quan thẩm tra tán thành.

Tờ trình của Chính phủ chỉ nêu bãi bỏ, nhưng bản thuyết minh chi tiết trong hồ sơ dự án luật thì nêu lý do bãi bỏ điều 292 rất chi tiết và rất thuyết phục, bà Nga nói thêm.

Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị giữ lại và đưa vào các chương tương ứng quy định hành vi cấm kinh doanh vàng tài khoản, kinh doanh đa cấp bất chính… trên mạng máy tính, mạng viễn thông vì phạm vi ảnh hưởng, tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, hậu quả lớn, rất khó khắc phục cần phải có quy định để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời sửa đổi lại cấu thành: mức thu lợi bất chính, doanh thu… cho phù hợp.

Bà Nga cho biết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã trực tiếp đề nghị giữ lại quy định cấm kinh doanh vàng trên tài khoản.

Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước đều đề nghị giữ lại quy định với kinh doanh vàng tài khoản và kinh doanh đa cấp ở điều 292, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết thêm.

Cũng đồng ý với lập luận thuyết phục của Chính phủ về lý do bãi bỏ điều 292, song Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho rằng cần giữ lại hai hành vi là kinh doanh vàng trên tài khoản và kinh doanh đa cấp bất chính vì nguy hiểm cho xã hội cần tiếp tục đấu tranh.

Nhấn mạnh “cơn ác mộng đa cấp” ở các vùng quê nghèo đã khiến cử tri kiến nghị kéo dài, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải tha thiết đề nghị giữ nguyên quy định cấm đối với bán hàng đa cấp trên mạng tại bộ luật.

Cùng với bãi bỏ điều 292, nhiều nội dung Chính phủ muốn sửa đổi, bổ sung cũng nhận được sự tán thành của cơ quan thẩm tra.

Theo Chủ nhiệm Lê Thị Nga, đa số ý kiến Uỷ ban Tư pháp tán thành với việc cần có quy định miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tiễn như Chính phủ trình.

Tuy nhiên, đối với trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự khi “pháp nhân thương mại tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước thừa nhận” thì chưa đảm bảo tính nghiêm minh.

Nhất là trong điều kiện pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường đang có xu hướng gia tăng và ngày càng nghiêm trọng như hiện nay.

Đồng thời, cũng không đảm bảo công bằng về chính sách hình sự đối với cá nhân vì theo quy định tại Điều 84 thì tình tiết “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong khi đó, cũng chỉ với tình tiết này pháp nhân thương mại lại có thể được miễn trách nhiệm hình sự là bất hợp lý.

Đề xuất lấy lại dấu hiệu “bỏ trốn” quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 vào cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm tài sản của Chính phủ cũng được Uỷ ban Tư pháp nhất trí.

Song, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” là đã đầy đủ, nên không cần phải quy định dấu hiệu “bỏ trốn” vào cấu thành cơ bản của điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông

1. Người nào cung cấp một trong các dịch vụ sau đây trên mạng máy tính, mạng viễn thông không có giấy phép hoặc không đúng nội dung được cấp phép, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm:

a) Kinh doanh vàng trên tài khoản;

b) Sàn giao dịch thương mại điện tử;

c) Kinh doanh đa cấp;

d) Trung gian thanh toán;

đ) Trò chơi điện tử trên mạng;

e) Các loại dịch vụ khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định của pháp luật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Có tính chất chuyên nghiệp;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội trong trường hợp thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên hoặc có doanh thu 5.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Đọc tiếp »

Ngày đầu khoán xe công: Thứ trưởng bắt taxi, Chủ tịch “quá giang” con gái

Chính sách khoán xe công của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 1/10 vừa qua, tuy nhiên vì ngày đầu áp dụng trùng với dịp cuối tuần nên đến ngày 3/10, các thứ trưởng và tổng cục trưởng của bộ này mới bắt đầu thực hiện chính sách khoán xe công.

Theo ghi nhận của VnEconomy, thay vì có xe biển xanh, lái xe đưa đón từ nhà riêng đến cơ quan như trước đây, nay thì các vị thứ trưởng đã lựa chọn cho mình những phương tiện di chuyển khác.

Cụ thể, Thứ trưởng Vũ Thị Mai, Thứ trưởng Trần Hữu Chí và Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn đều chọn taxi để đi làm.

Trong khi đó, Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải, Thứ trưởng Trần Xuân Hà và Thứ trưởng Trần Văn Hiếu bước xuống sảnh Bộ Tài chính từ những chiếc ôtô biển trắng, trong đó có xe do họ tự lái và có những chiếc xe được thuê theo tháng của đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải…

Việc áp dụng khoán xe công tại Bộ Tài chính trước mắt chỉ áp dụng cho cung đường đi làm hàng ngày từ nhà đến cơ quan. Trao đổi với VnEconomy, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn vui vẻ cho biết, ông sẽ sử dụng taxi là phương tiện đi lại giữa nhà riêng và cơ quan.

Trong khi đó, Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Vũ Bằng cho biết ông vừa “quá giang” xe con gái lên cơ quan. Nếu như con gái bận thì người đứng đầu Ủy ban Chứng khoán sẽ chủ động đi taxi.

Ông Bằng nhận định việc khoán xe công không có gì phiền hà, và đây là một chính sách hữu ích, giúp tiết kiệm trong bối cảnh ngân sách Nhà nước còn khó khăn. Trước mắt nên thí điểm cung đường từ nhà lên cơ quan và ngược lại. Sau đó, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục đánh giá và áp dụng rộng rãi dựa trên hiệu quả mang lại.

Một lãnh đạo khác của Bộ Tài chính cho biết, theo quan sát của ông, các thứ trưởng của Bộ khá vui vẻ thực hiện và chưa có phàn nàn, bất tiện gì xung quanh việc di chuyển từ nhà đến cơ quan. Cũng theo vị này, trước khi khoán xe công, nhiều vị lãnh đạo Bộ Tài chính đã chủ động lái xe riêng lên cơ quan để giải quyết công việc.

Từ 1/10, theo Quyết định số 1997/QĐ-BTC, Bộ Tài chính áp dụng chế độ khoán kinh phí sử dụng xe công đối với các chức danh thứ trưởng, chức danh lãnh đạo có hệ số phụ cấp chức vụ 1,25 (tổng cục trưởng và tương đương) thuộc Bộ. Đơn giá sẽ áp theo giá taxi, cao nhất là 15.000 đồng/km.

Cụ thể, các thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Trần Xuân Hà, Trần Hữu Chi có khoảng cách di chuyển khoảng 15 km, 22 ngày làm việc, mức khoán là 9,9 triệu đồng/tháng.

Các thứ trưởng Trần Văn Hiếu, Vũ Thị Mai có khoảng cách di chuyển 8 km, nên mức khoán là 5,3 triệu đồng. Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải có khoảng cách khoảng 6 km, mức khoán là gần 4 triệu đồng một tháng.

Theo tính toán, tiền xe đưa đón cho 6 vị thứ trưởng là 44,2 triệu đồng một tháng.

"Việc khoán xe công sẽ tiết kiệm hơn nhiều so với quy định cũ. Bộ Tài chính đi tiên phong trong việc này. Tuy nhiên để thận trọng, trước mắt Bộ áp dụng khoán xe đưa đón từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại. Sẽ có vấn đề phát sinh về lái xe, số lượng xe. Anh em cán bộ lái xe còn ở đó, giải tán ngay không được. Hiện đi công tác tới đâu vẫn phải bố trí xe công”, Cục trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) Trần Đức Thắng nói.

Báo cáo tài sản Nhà nước năm 2015 của Chính phủ cho biết, tổng số xe ôtô công của cả nước là 37.772 chiếc, với tổng nguyên giá gần 23.000 tỷ đồng.

Trong đó, xe phục vụ chức danh 900 chiếc (các chức danh có hệ số 0,7 trở lên được sử dụng xe công và từ 1,25 trở lên thì được đưa đón), xe phục vụ công tác chung 23.959 chiếc và xe chuyên dùng 12.913 chiếc. Sau thời gian sử dụng, quỹ xe công có tổng giá trị còn lại theo sổ kế toán là 6.721 tỷ đồng, bằng khoảng 29% tổng nguyên giá.

Đọc tiếp »

Ngân hàng 0 đồng có thể là trọng tâm kiểm toán 2017

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Sắp có loạt giải pháp thuế hỗ trợ doanh nghiệp

Phó thủ tướng Vương Đình Huệ vừa có chỉ đạo đối với dự thảo nghị quyết về một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

Theo ý kiến của Phó thủ tướng, việc ban hành dự thảo nghị quyết là phù hợp với chủ trương quy định tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Do đó, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương hoàn chỉnh lại dự thảo nghị quyết theo hướng rà soát, thu hẹp phạm vi áp dụng để bảo đảm đúng với tinh thần của Nghị quyết số 35/NQ-CP; lựa chọn những nội dung cấp thiết cần tháo gỡ ngay, áp dụng trong thời gian ngắn, trong đó có báo cáo về vướng mắc hiện hành của chính sách tiền thuê đất áp dụng đối với doanh nghiệp.

Bộ Tài chính báo cáo, xin ý kiến Chính phủ đối với những nội dung là chính sách cần sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để áp dụng lâu dài. Các giải pháp đề xuất áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp công nghệ thông tin phải thống nhất với quy định trong dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trường hợp Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa không quy định về tiêu chí và ưu đãi thuế, bổ sung các quy định này tại dự thảo nghị quyết để kịp thời thực hiện trong các năm 2017, 2018. Giao Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật về thuế để áp dụng lâu dài.

Không quy định việc bù trừ thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản với lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Bộ Tài chính thực hiện tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 32/2013/QH13, trong đó có vấn đề này để kiến nghị Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung luật nếu cần thiết.

Phó thủ tướng cũng đồng ý về chủ trương xóa nợ tiền chậm nộp đối với người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước, có nguồn từ ngân sách Nhà nước nhưng không được Nhà nước thanh toán theo tiến độ dẫn đến phát sinh tiền chậm nộp, tiền phạt chậm nộp.

Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Phó thủ tướng, tại nghị quyết này không quy định về xóa nợ, khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với trường hợp giải thể, phá sản, bỏ kinh doanh, vì đây là vấn đề quản lý thuế, không liên quan đến khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Trường hợp cần thiết thì quy định ở văn bản khác.

Mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư, cải tạo chung cư cũ là 15% nếu bảo đảm hạch toán riêng, dự án được triển khai, thực hiện trong các năm 2017, 2018.

Phó thủ tướng yêu cầu giải trình rõ tác động của giải pháp giảm 50% thuế thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân là nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin thuộc lĩnh vực công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản đối trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Trường hợp cần thiết thì chỉ áp dụng đối với cá nhân làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngành, lĩnh vực thực sự cần khuyến khích trong các năm 2017, 2018. Về lâu dài, cần đánh giá để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp.

Đọc tiếp »

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Góc nhìn: Nỗi sợ dùng ngân sách xử lý nợ xấu

Những ngày gần đây, xuất phát từ bản dự thảo kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng, vấn đề sử dụng ngân sách Nhà nước để xử lý nợ xấu một lần nữa lại thu hút những quan điểm trái chiều.

Đã 5 năm qua, kể từ khi có đề án xử lý nợ xấu, đề xuất sử dụng một phần ngân sách từng nhiều lần được đặt ra. Tuy nhiên, nó chưa từng được đặt ra một cách xứng đáng.

Ngân sách bị dùng gián tiếp

Điểm lại, đề xuất này mới chỉ ở mức độ mon men hoặc phảng phất trong các báo cáo, hoặc phụ lục của các dự thảo liên quan, như một sự thăm dò. Cho đến nay, với công chúng, chưa từng có một diễn đàn tầm cỡ, trọn vẹn, hay một đề án có cơ sở khoa học đúng tầm được công bố để cùng đánh giá, phân tích cho vấn đề này.

Thăm dò, vì ngay từ khi thai nghén, phảng phất ý tưởng sau đề án xử lý nợ xấu, việc sử dụng ngân sách Nhà nước đã vấp phải phản ứng, có thể nói là dữ dội, từ công chúng, cả bên lề diễn đàn Quốc hội…

Phản ứng đầu tiên vẫn là những phản biện: Sao lại dùng tiền thuế của dân để đi cứu các ngân hàng, các “ông chủ”? Phải có sự trả giá cho những sai lầm, cho những cách làm gây hậu quả là nợ xấu, phải để thị trường đào thải? Ngân sách khó khăn, tiền đâu để xử lý?

Thực ra, xét kỹ thì ngân sách vẫn đang được dùng một cách gián tiếp để xử lý nợ xấu đó thôi.

Nhiều phân tích thời gian qua cùng nhận định: lãi suất cho vay đến nay vẫn khó giảm vì kẹt nợ xấu. Nhìn ngược lại, nếu không nặng nợ xấu, lãi suất cho vay đã tiếp tục giảm được. Theo đó, các doanh nghiệp và người dân vay vốn “còn sống” hiện nay vẫn đang phải cõng một phần chi phí, qua lãi suất cho vay, để “nuôi” nợ xấu.

Nếu bớt được một phần chi phí đó, lãi suất cho vay giảm được, hoạt động sản xuất kinh doanh hẳn đã đóng góp tốt hơn nữa cho ngân sách Nhà nước.

Với các ngân hàng thương mại, nếu không nặng nợ xấu và chi phí trích lập dự phòng rủi ro, lợi nhuận những năm qua và hiện nay đã cao hơn, nộp thuế và đóng góp cho ngân sách tốt hơn.

Một khoản đầu tư sinh lời?

Như trên, đã 5 năm qua, phản ứng từ dư luận vẫn nguyên đó. Nhưng, với lợi ích đại cục, việc sử dụng một phần ngân sách Nhà nước để xử lý nợ xấu cần được nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện, cân đong được và mất.

Thay vì mon men đưa ra trong một dự thảo hay báo cáo nào đó, các đầu mối chuyên trách hãy xây dựng đề án khoa học, đánh giá xem việc sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu có phải là một khoản đầu tư sẽ sinh lời hay không; hay vẫn tiếp tục để doanh nghiệp và người dân vay vốn “còn sống” góp tiền qua lãi suất cho vay cao để “nuôi” nợ xấu, để nó tiếp tục níu kéo cả nền kinh tế.

Cách đây hơn một năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư từng đưa ra tính toán: nếu lãi suất cho vay giảm 1%/năm sẽ có tác động tổng hợp làm GDP năm 2015 tăng thêm khoảng 0,45% và lạm phát giảm khoảng 0,76%.

Lợi ích của giảm lãi suất theo đó rất rõ ràng, có thể tham khảo bằng kết quả lượng hóa trên.

Vậy, với cơ sở khoa học, các đầu mối chuyên trách hoàn toàn có thể lượng hóa được, nếu dùng ngân sách Nhà nước giảm được 1% nợ xấu thì sẽ giảm được bao nhiêu phần trăm lãi suất cho vay, qua đó để tính phần sinh lời đối với GDP.

Tương tự, cũng có thể lượng hóa được kết quả xử lý nợ xấu đó, kéo giảm lãi suất, sẽ giúp giảm được bao nhiêu chi phí lãi vay cho các doanh nghiệp và người dân đang có tổng dư nợ 5.037.936 tỷ đồng (tính đến tháng 6/2016). Gánh nặng lãi vay được giảm bớt này có thể giúp tăng năng lực cạnh tranh, tăng thu nhập, tăng nộp thuế cho ngân sách thêm như thế nào.

Và cả phía các ngân hàng thương mại nữa, nếu được hỗ trợ xử lý nợ xấu, lợi nhuận sẽ gia tăng và nâng đóng góp cho ngân sách Nhà nước như thế nào…

Tổng thể những tính toán trên có thể được lượng hóa để xem việc sử dụng ngân sách, mức độ sử dụng, có là một khoản đầu tư sinh lời hay không, và đâu là những biến số. Nếu sinh lời lớn, có lợi ích lớn cho cả nền kinh tế, thì tại sao không? Hoặc cái giá phải trả là gì?

Nợ xấu lớn, đeo bám và níu kéo suốt nhiều năm qua, và sẽ tiếp tục nhiều năm tới nếu không có những chuyển biến, đột phá trong xử lý. Để cắt bỏ sự níu kéo này, việc nghiên cứu và đánh giá một cách xứng đáng vấn đề trên, độc lập với quyết định sử dụng ngân sách hay không, cũng là việc nên làm.

Ít nhất, nếu có một đề án đánh giá tổng thể, phân tích chắc chắn về cơ sở khoa học việc sử dụng ngân sách Nhà nước để xử lý nợ xấu, thì sẽ rộng đường dư luận hơn là sự mon men đề xuất và nỗi sợ nào đó đối với áp lực dư luận.

Và nếu nó thực sự là một khoản đầu tư sinh lời, thì có lẽ không hẳn cả thế giới đều quay lưng.

Đọc tiếp »

Dự án Ví Việt của LienVietPostBank nhận tài trợ UNCDF

Ngày 16/9, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) và Quỹ Đầu tư Phát triển Liên hiệp quốc (UNCDF) ký thỏa thuận tài trợ cho dự án “Ví Việt - Giải pháp thanh toán toàn diện cho Phụ nữ Việt Nam”.

Dự án Ví Việt dành cho phụ nữ do LienVietPostBank xây dựng, được tài trợ trong khuôn khổ Chương trình thúc đẩy tiếp cận tài chính toàn diện - Cửa sổ 2 của UNCDF.

Ví Việt (tên gọi tắt của thẻ phi vật lý Ví Việt) được LienVietPostBank nghiên cứu, phát triển và phát hành cho chủ thẻ Ví Việt để giao dịch trên điện thoại di động, máy tính bảng, máy tính cá nhân, máy tính để bàn có kết nối internet.

Theo đại diện LienVietPostBank, hiện dung lượng thị trường cho sản phẩm như Ví Việt rất lớn. Tại Việt Nam, khoảng 70% dân số chưa có tài khoản ngân hàng hoặc chưa tiếp cận với các dịch vụ tài chính ngân hàng. Do đó, việc triển khai trên quy mô lớn sản phẩm Ví Việt sẽ cung cấp giải pháp tài chính vi mô đến người dân trong cả nước từ thành thị đến nông thôn và các vùng sâu, vùng xa.

Để nâng cao hiệu quả trong quá trình triển khai và lan tỏa sức ảnh hưởng tới cộng đồng của Ví Việt, trong gần một năm qua, LienVietPostBank đã phối hợp với Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam dự thảo và khởi động dự án Ví Việt dành cho phụ nữ.

Cạnh tranh với 32 hồ sơ của Việt Nam trong tổng số 90 hồ sơ đăng ký tham gia Chương trình thúc đẩy tiếp cận tài chính toàn diện - Cửa sổ 2 từ bốn quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar, “Ví Việt dành cho phụ nữ” đã trở thành dự án đầu tiên của Việt Nam được lựa chọn nhận khoản tài trợ 325.000 USD (khoảng 7,26 tỷ đồng) từ UNCDF, theo hình thức tài trợ bồi hoàn chi phí.

Dự án nhằm cung cấp các dịch vụ thanh toán, sản phẩm ngân hàng thông qua Ví Việt để gia tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng cho phụ nữ Việt Nam, phát triển thêm các điểm ủy thác thanh toán và điểm giao dịch Ví Việt (cửa hàng, siêu thị mini, điểm bán sim - thẻ...) do phụ nữ làm chủ, giúp tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho chủ hộ kinh doanh.

Cũng trong khuôn khổ dự án này, LienVietPostBank sẽ phối hợp với Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xây dựng các chương trình giáo dục tài chính nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về việc quản lý tài chính, đặc biệt là người dân ở khu vực nông thôn, ven đô thị, đồng thời phát triển thói quen thanh toán không dùng tiền mặt.

Dự kiến trong vòng hai năm, từ tháng 9/2016 đến hết tháng 8/2018, dự án sẽ được triển khai trên phạm vi 10 tỉnh thành, gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai. Theo đó, dự kiến sẽ có tối thiểu 500.000 phụ nữ sử dụng Ví Việt cùng 2.500 điểm chấp nhận Ví Việt do người phụ nữ làm chủ sẽ được phát triển mới.

Đọc tiếp »

Tránh vạ thanh khoản, ngân hàng bắt đầu thanh lọc dự án BOT

Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến 30/6/2016, tính riêng các ngân hàng thương mại đã cam kết cấp tín dụng dự án BOT, BT giao thông là 159.204 tỷ đồng; tổng số dư cấp tín dụng là 83.611 tỷ đồng, tăng 12,43% so với cuối 2015.

Trong khi một vài ngân hàng thương mại bắt đầu thanh lọc bớt dư nợ cho vay vào lĩnh vực này, thì nhiều đơn vị khác tiếp tục lao vào.

Tăng đáng báo động

Đại diện Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành 7 đã đưa ra một số số liệu cho thấy không ít lo ngại về thực trạng cấp tín dụng đối với các dự án BOT và BT giao thông, tại một hội thảo mới đây.

Theo đó, đến cuối tháng 3/2016, có tất cả 19 tổ chức tín dụng (số liệu của Ngân hàng Nhà nước ở phần đầu bài viết chỉ đối với các ngân hàng thương mại - PV), phát sinh dư nợ với BOT và BT.

Trong đó, 4 “ông lớn” Nhà nước dẫn đầu và tiếp theo là 11 đơn vị cổ phần, 3 tổ chức tín dụng nước ngoài cùng 1 công ty tài chính. Tổng hạn mức cấp tín dụng tính đến thời điểm trên là 162,7 nghìn tỷ đồng; dự án BOT chiếm 74,6%, BT chiếm 25,4%.

Đáng chú ý, kể từ quý 4/2015 đến quý 1/2016, tín dụng trong lĩnh vực này tăng mạnh và xuất hiện nhiều cái tên mới sau nhóm 4 “ông lớn” Nhà nước cùng một số ít ngân hàng thương mại cổ phần ở thời kỳ trước đó.

Cụ thể: quý 1/2015 tăng 10,1% còn hết quý 1/2016 so với cuối 2015, tăng tới 6,5%, tương ứng tăng thêm 10 nghìn tỷ đồng.

Trong đó, hai trong bốn đơn vị Nhà nước chi phối vốn tăng mạnh nhất, lần lượt là 6,9 nghìn tỷ đồng và 1,7 nghìn tỷ đồng; 1,03 nghìn tỷ đồng tiếp theo là dư nợ của một ngân hàng cổ phần khác vừa chân ướt chân ráo bước vào lĩnh vực này.

Cũng theo Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành 7, trong tổng dư nợ cấp ra, có tới 95,28% dư nợ nhóm 1, nợ xấu chỉ chiếm 0,1%, tương ứng 88,7 tỷ đồng.

Một điều đáng tiếc, trong số 88,7 tỷ đồng nợ xấu nói trên thì có 83,4 tỷ đồng nằm ở một ngân hàng thương mại Nhà nước chi phối vốn do vướng phải dự án nâng cấp mở rộng đầu tư quốc lộ 14 đoạn Cây Chanh - cầu 38.

Ngoài ra, thêm một điểm đáng lưu ý với các ngân hàng có dư nợ lớn đối với BOT và BT là cấp tín dụng quá tập trung vào một khách hàng. Chẳng hạn, một ngân hàng cấp cho Công ty Cổ phần BOT Pháp Vân - Cầu Giẽ 5.813 tỷ đồng; Công ty Cổ phần BOT Biên Cương 9.006 tỷ đồng; dự án mở rộng Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 1A là 3.822 tỷ đồng.

Hay như, một “ông lớn” Nhà nước khác cấp cho Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và thương mại Phương Anh 3.323 tỷ đồng; Công ty Cổ phần ĐT Địa ốc Đại Quang Minh 3.890 tỷ đồng; Công ty TNHH BOT và BT quốc lộ 20 2.631 tỷ đồng...

Đây là những trường hợp điển hình “dồn trứng vào một giỏ”, khiến cơ quan kiểm toán lên tiếng khuyến cáo.

Trong khi đó, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong thời gian qua, khi tín dụng BOT có xu hướng bùng nổ, cơ quan này bên cạnh nhắc nhở đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm tránh hệ quả tiêu cực phát sinh trong trung hạn.

Người trong cuộc rút dần

“Không phải đợi đến lúc cơ quan quản lý khuyến cáo mà ngay từ khi lựa chọn đầu tư cho vay các dự án BOT, BT giao thông, chúng tôi không tách rời các chuẩn mực, điều kiện của ngân hàng cũng như quy định của luật pháp, kèm theo đó là phải có tài sản bảo đảm đầy đủ”, ông Nguyễn Văn Lê, Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) nói.

Theo đó, tính đến tháng 8/2016, dư nợ cho vay nhóm khách hàng BOT,BT giao thông của SHB là 6.852 tỷ đồng, tất cả thuộc nhóm 1, chiếm 4,3% tổng dư nợ BOT toàn ngành ngân hàng. Trong đó, có 3 dự án ngân hàng cho vay đã hoàn thành và có nguồn thu.

“Chúng tôi luôn có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ dòng tiền nguồn thu phí giao thông sau khi cấp tín dụng đầu tư BOT. Trên cơ sở đó, xác định kỳ hạn cho vay phù hợp với dòng tiền nguồn thu phí thực tế nhằm đảm bảo rằng: nguồn thu dự án phải thanh toán đầy đủ nợ vay”, theo ông Lê.

Trong khi đó, đại diện một ngân hàng khác cho biết, mặc dù chịu sức ép của chủ đầu tư kéo dài thời gian trả nợ theo vòng đời dự án (thường là 20 năm) nhưng những ngân hàng làm ăn từ đợt đầu (2012 và 2013), đã cho người túc trực cả ngày lẫn đêm hàng tháng trời, đếm từng lượt xe tại khu vực dự án.

Dựa theo số liệu lưu lượng xe qua lại, ngân hàng ước tính doanh thu phí để làm căn cứ đàm phán với chủ đầu tư, phân bổ thời gian thu hồi vốn. “Chủ đầu tư muốn kéo dài thời gian thu hồi vốn theo vòng đời dự án nhưng chúng tôi chỉ chấp nhận 10 năm, kéo dài thêm, rất sợ rủi ro”, ông này nói.

Cũng vì những khắt khe này, không ít chủ đầu tư BOT, BT đã coi đó là rào cản và tìm đến những ngân hàng có khẩu vị rủi ro phù hợp nhưng thực chất là có phần dễ dãi để vay.

Cũng theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, dòng vốn ngân hàng đổ vào dự án BOT giao thông đang tăng rất mạnh.

Tính đến cuối tháng 4/2016, Bộ Giao thông Vận tải đang quản lý 80 dự án BOT, BT với tổng mức đầu tư tới 223.670 tỷ đồng và ngoài các “ông lớn” Nhà nước thì các chủ đầu tư đang mở rộng tìm đến các ngân hàng khác trong nhóm cổ phần.

Ngoài ra, tính minh bạch của việc thu phí đang trở thành bức xúc lớn trong xã hội, đặc biệt là lĩnh vực vận tải. Không ai biết doanh thu cụ thể của từng dự án BOT, ngoại trừ chủ đầu tư và ngân hàng.

Để công khai và kiểm soát tốt nguồn thu phi giao thông, một chuyên gia nói: “Cách tốt nhất là mở một tài khoản chuyên biệt tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước và tất cả nguồn thu phí giao thông các dự án BOT sẽ chuyển về tài khoản tập trung tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước quản lý thì tất cả sẽ minh bạch. Nhưng như thế thì chủ đầu tư sẽ chẳng còn ăn gì”.

Đọc tiếp »