Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Ngân hàng, ngân sách và trớ trêu lãi suất

Ngày 20/10, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có giấy chứng nhận đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Nhưng phải đến 24/10, thông tin chính thức mới được công bố.

Ngay sáng 24/10, lãnh đạo một ngân hàng thương mại khác cho biết sẽ xem xét đầu tư khoảng 500 tỷ trong tổng 2.000 tỷ trái phiếu Vietcombank phát hành lần này. Lý do, lãi suất hấp dẫn.

2.000 tỷ đồng trong kế hoạch dự kiến phát hành 8.000 tỷ của Vietcombank góp thêm sự sôi động cho mùa trái phiếu ngân hàng năm nay. Và như dự kiến tham gia của ngân hàng muốn đầu tư 500 tỷ nói trên, lãi suất ở đây là hấp dẫn.

Thế nhưng, với Vietcombank, chi phí trong kế hoạch phát hành này có một “khoảng lặng” được tính toán không hề dễ chịu.

Mục đích của đợt phát hành nhằm từng bước triển khai kế hoạch dự phòng, cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR). Điều này cho thấy triển vọng được các cơ quan chức năng duyệt kế hoạch bán vốn cho GIC (quỹ đầu tư của Singapore) mờ dần đi, dù hai bên đã có bản thỏa thuận đầu tư từ đầu tháng 9 vừa qua.

Đây là trái phiếu dài hạn, tới 10 năm, được tính vào vốn cấp 2, giúp nâng CAR khỏi chìm vào vi phạm quy định hoạt động, khi kế hoạch tăng vốn, qua bán cho GIC, đang kém khả thi. Lãi suất trái phiếu bằng bình quân kỳ hạn 12 tháng của nhóm “Big 4” cộng thêm 1%/năm. “Khoảng lặng” không dễ chịu nằm ở đây.

Vietcombank vừa quyết định giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm sâu từ 1-1,5%/năm lãi suất cho vay, thế nhưng, với kế hoạch phát hành trái phiếu này họ phải trả lãi suất rất cao.

Trớ trêu, một ngân hàng đang có mặt bằng lãi suất huy động thấp nhất thị trường, phổ biến dưới 6,5%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn của họ cũng cố tìm khách tốt để chào cỡ 6%/năm, vốn có trạng thái dư thừa, nhưng vẫn phải đi vay (qua trái phiếu nói trên) với lãi suất khoảng 7,5-7,7%/năm.

Chưa hết, gánh nặng lãi vay này sẽ tiếp tục kéo dài theo kỳ hạn của trái phiếu, bất chấp Vietcombank có thừa vốn huy động giá thấp đi nữa. Và nếu phải dùng hết kế hoạch phát hành 8.000 tỷ trái phiếu, chi phí trớ trêu đó là đáng kể.

Nếu như cổ đông lớn Nhà nước, đang chiếm tỷ lệ sở hữu chi phối, thể hiện vai trò hỗ trợ tốt hơn cho ngân hàng tăng vốn, cải thiện hệ số CAR, thì đã không phải dùng đến biện pháp tài chính có chi phí trớ trêu đó. Bớt gánh nặng, bước nhanh hơn, nộp ngân sách Nhà nước sẽ tốt hơn. Đây không phải là suy đoán chủ quan, vì năm rồi, Vietcombank đã nộp về ngân sách tới 4.400 tỷ, lớn nhất trong hệ thống. Và năm nay, đây đang là ứng viên sáng giá nhất cho vị trí dẫn đầu lợi nhuận toàn hệ thống.

Nhìn sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cũng không mấy khác biệt về tình cảnh.

Cuối cùng, BIDV cũng đã phải nộp về ngân sách Nhà nước phần cổ tức 2015, theo yêu cầu của Bộ Tài chính, thay vì có thể tranh thủ nguồn lực này bằng trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Ngân sách Nhà nước đã không nhượng bộ, không hỗ trợ, không thể hiện vai trò là cổ đông lớn nhất, thì BIDV phải tìm cách huy động, tương tự với trái phiếu dài hạn để tính vào vốn cấp 2.

Vẫn là trớ trêu, ngân hàng dư vốn, đang cho vay lãi suất ngắn hạn chỉ khoảng 6%/năm, lại phải đi huy động trái phiếu lãi suất cao vượt trội 7,5-7,7%/năm. Và tương tự Vietcombank, con đường cải thiện CAR của BIDV cũng phải vá víu với chi phí như vậy, càng khó mở rộng kinh doanh để nâng lợi nhuận, tăng nộp ngân sách.

Điểm an ủi ở hướng đi này, có chăng là chờ đợi tương lai. Giả dụ, trong vòng 5 năm tới, cả Vietcombank và BIDV cùng bán vốn cho nước ngoài thành công, hoặc cổ đông Nhà nước “mở lòng” đầu tư thêm vốn, CAR theo đó được cải thiện bền vững, họ có thể mua lại trái phiếu đã phát hành để chủ động cắt gánh nặng chi phí lãi suất cao này.

Đó là hy vọng ở tương lai, tính hiện thực chưa rõ. Còn lúc này, kế hoạch tài chính 2016 của những “ông lớn” này đều cho thấy một thực tế: kỷ luật thu ngân sách, xét riêng ở đây, chặt chẽ đến khắc nghiệt, phải thu và nộp toàn bộ, như không tính toán đến thiệt hơn.

Như vậy liệu có tình huống “tham bát bỏ mâm” không, bởi nếu ngân sách năm nay hỗ trợ họ tăng vốn, nâng cao CAR thì họ sẽ kinh doanh tốt hơn, lợi nhuận tốt hơn và sẽ nộp cho ngân sách nhiều hơn, trước hết là về thuế rồi đến cổ tức?

Tình huống vẫn chỉ là tình huống. Vì hiện BIDV đã buộc phải nộp cổ tức bằng tiền về Bộ Tài chính rồi; kế hoạch bán cổ phần để tăng vốn của Vietcombank cũng mờ dần khả năng được duyệt. Không và khó có phép màu thay đổi ở đây.

Đọc tiếp »

Mỗi năm Việt Nam trả nợ vay ODA khoảng 1 tỷ USD

Chiều 25/10, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) đã tổ chức họp báo chuyên đề giới thiệu nội dung mới về quản lý tài chính các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay của các nhà tài trợ nước ngoài theo Thông tư số 111/2016 mới ban hành của Bộ Tài chính.

Lãi ODA đã vay tăng lên 2-3,5% từ tháng 7/2017

Tại buổi họp báo, ông Hoàng Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, cho biết, trong 10 năm (2005-2015), tổng số vốn ODA của Việt Nam đã ký kết khoảng 45 tỷ USD, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực cân đối tài chính vĩ mô, phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu, nông nghiệp...

Lãnh đạo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, vốn vay ODA vẫn nằm trong hạn mức của Chính phủ. Bình quân dự toán trả nợ gốc và lãi vốn ODA khoảng 1 tỷ USD. Về việc vay nợ mới để trả nợ cũ, ông Hoàng Hải cho rằng nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản cũng làm vậy.

Tuy nhiên, Việt Nam chưa được chuyên nghiệp như các nước trên hàng năm vẫn dùng ngân sách Nhà nước để đáp ứng trả nợ, trong những năm gần đây buộc phải vay mới trả cũ thực hiện để đảm bảo cân đối trả nợ.

Từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình. Mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm rõ rệt. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp.

Dự kiến đến tháng 7/2017, Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%.

"Ngân hàng thế giới sẽ nhóm họp và ra quyết định Việt Nam cùng một số quốc gia khác có tốt nghiệp IDA (không thuộc nhóm nước thu nhập thấp) hay không. Nếu Việt Nam được bỏ phiếu tốt nghiệp IDA thì sẽ không được vay ODA theo điều kiện", ông Hải cho biết.

Quản lý hiệu quả vốn ODA

Trong bối cảnh Việt Nam bắt đầu bước vào ngưỡng các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, việc huy động các nguồn vốn ODA trở nên khó khăn hơn. Nhằm đảm bảo mục tiêu vay nợ bền vững thì nguồn vốn ODA cũng cần được sử dụng một cách chiến lược và cẩn trọng để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế bởi thực chất, nguồn vốn ODA cũng chính là nợ quốc gia.

Do đó, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02 về tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công. Theo đó, nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các công trình kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch. Tăng dần tỷ lệ cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.

Dựa trên chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài chính đã áp dụng Thông tư 111 từ 30/6/2016 với một số quy định mới như hướng dẫn rõ nội dung và quy trình xác định cơ chế tài chính ngay từ khâu đề xuất chương trình, dự án; Quy định về khâu lập kế hoạch và kiểm soát chi, quản lý giải ngân; Quy định về quy trình kiểm soát chi, đối với vốn ODA, vốn vay ưu đãi áp dụng quy trình chung về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp, thanh toán chi giải phóng mặt bằng...

Ngoài ra Thông tư còn bổ sung hướng dẫn về một số nội dung đặc thù đối với vốn ODA, quy trình hạch toán ngân sách nhà nước mới...

Theo ông Hoàng Hải, việc quy định rõ về quy trình xác định cơ chế tài chính, cơ chế giải ngân theo kế hoạch vốn được giao, quy trình hạch toán ngân sách mới sẽ giúp quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay nước ngoài.

Đọc tiếp »

“Giải tỏa nỗi sợ trách nhiệm để xử lý nợ xấu”

Chiều 26/10/2016, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội thảo với chủ đề “Xử lý nợ xấu - Những nút thắt cần tháo gỡ”. Biết sự kiện này, ông Nguyễn Duy Hưng, người từng nhiều năm làm lãnh đạo tại một số ngân hàng thương mại và là một bạn đọc của VnEconomy, trao đổi thêm một góc nhìn bên lề.

Từ hơn chục năm trước, tại nhiều hội thảo, diễn đàn về xử lý nợ xấu, ông Hưng từng phát biểu, nêu nhiều vướng mắc pháp lý trong khởi kiện, xử lý tài sản đảm bảo, thi hành án…

Đến nay nhìn lại, ông vẫn nản: “Cơ chế chính sách cũng có thay đổi, nhưng về cơ bản các vướng mắc vẫn vậy. Chúng ta cứ xoay quanh nó, rồi lại thêm dăm mười năm nữa may chăng được tháo gỡ thực sự để có thể giúp xử lý nợ xấu”.

Muốn, nhưng không sẵn sàng

Ba năm qua, ông Hưng tự bỏ tiền túi và huy động các nguồn ủy thác tham gia mua bán nợ. Những gì ông chia sẻ là đúc kết thực tế trong quá trình làm việc với các ngân hàng. Và vướng mắc lớn nhất trong xử lý nợ xấu thời gian qua và hiện nay, theo ông, là quan điểm về nợ xấu và vấn đề trách nhiệm.

“Tôi làm việc với nhiều ngân hàng. Họ muốn bán nợ xấu, nhưng lại không sẵn sàng bán. Như trong chứng khoán, bán nợ xấu là hành động cắt lỗ. Ai dám cắt và chịu trách nhiệm cho phần lỗ đó? Thiệt hại từ nợ xấu là tổn thất của ngân hàng, nhưng trách nhiệm sẽ quy về cá nhân liên quan, người cho vay hoặc người bán nợ”, ông đặt vấn đề.

Theo ông, nợ xấu là hàng hóa, nhưng là hàng hóa giảm giá. Bởi nếu vẫn bán đúng giá ban đầu của nó thì không bao giờ bán được. Khi trở thành nợ xấu, giá hàng hóa này bị giảm. Thế nhưng, giả dụ, một khoản nợ 50 tỷ đồng, trở thành nợ xấu và chỉ bán được 30 tỷ đồng, 20 tỷ mất mát đó ai sẽ chịu trách nhiệm?

Trách nhiệm đầu tiên là những người cho vay, các cá nhân liên quan. Nếu bán, cắt lỗ và hiện thực lỗ, mất mát này sẽ quy trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp, có thể là trách nhiệm pháp lý - hình sự hóa các quan hệ dân sự, điều quan ngại nhất trong tâm lý những người làm ngân hàng những năm gần đây, theo nhìn nhận của ông Hưng.

Cũng chính vì quan ngại đó, thị trường mua bán nợ thực sự vẫn thiếu người bán, hàng hóa vẫn hạn chế và chưa hấp dẫn, chưa kích thích để tạo và thu hút những người đi mua. Xử lý nợ xấu bằng hướng này, bằng giải pháp thị trường, vẫn chưa phát triển.

An toàn cho người cắt lỗ?

Với góc nhìn đó, người trong cuộc này cho rằng, nguyên do chính khiến nợ xấu vẫn còn đó, vẫn cao vì đã không để hoặc chưa tạo được điều kiện để thị trường tham gia vào xử lý.

“Trong hoạt động ngân hàng, trong nền kinh tế, nợ xấu phát sinh là bình thường. Dù có nguyên nhân chủ quan, khách quan, có yếu tố tiêu cực, tích cực, nhưng nó là câu chuyện của thị trường và cần được xử lý bằng những giải pháp thị trường, tất nhiên là có sự vận hành của Nhà nước”, góc nhìn trên nêu quan điểm.

Theo đó, nợ xấu được xem là hàng hóa, một loại hàng hóa giảm giá. Nếu có người bán, giá giảm sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh, thị trường và nhà đầu tư sẽ không bỏ qua cơ hội đó. Những vướng mắc kỹ thuật trong xử lý nợ, được nêu lên cả chục năm qua, cũng sẽ phản ánh vào giá. Và khi nợ xấu trở thành cơ hội kinh doanh, tự thân thị trường sẽ hút các nguồn lực chảy vào đây.

Nhưng, như trên, vướng mắc chính vẫn là nỗi sợ trách nhiệm, khiến ngân hàng không sẵn sàng bán cắt lỗ để kích thích các nguồn lực trên thị trường tham gia vào xử lý nợ xấu.

Ý kiến trên cho rằng, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã giảm sốc vấn đề nợ xấu đối với nền kinh tế bằng giải pháp VAMC, thì đến nay cần sử dụng rõ ràng hơn giải pháp của thị trường.

Trước vướng mắc của nỗi sợ trách nhiệm, ông Nguyễn Duy Hưng cho rằng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng, các cá nhân liên quan đối diện với trách nhiệm tổn thất từ nợ xấu, qua chủ trương không hình sự hóa các quan hệ dân sự, tạo cơ chế an toàn cho các quyết định bán nợ xấu - cắt lỗ ở loại hàng hóa giá giảm này.

“Tôi tin rằng, nếu giải tỏa được vấn đề trách nhiệm ở đây, thị trường mua bán nợ sẽ có cơ hội phát triển tốt hơn, việc xử lý nợ xấu sẽ nhanh và thực chất hơn. Dĩ nhiên, đây phải là quá trình xử lý công khai và minh bạch”, ông Hưng kỳ vọng.

Đọc tiếp »

LienVietPostBank gần cán đích lợi nhuận cả năm

Ngày 26/10, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) công bố kết quả kinh doanh cơ bản quý 3 và lũy kế 9 tháng đầu năm 2016.

Thông báo cho biết, tổng lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm của LienVietPostBank đã đạt 865 tỷ đồng, tương đương 94,5% kế hoạch lợi chuận cả năm. Mức lợi nhuận này tăng tấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2015.

Lợi nhuận sau thuế trong 9 tháng năm 2016 của LienVietPostBank theo đó đạt gần 700 tỷ đồng, gấp đôi cùng kỳ năm 2015.

Riêng trong quý 3/2016, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 330 tỷ đồng, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước.

Với mức lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2016 và triển vọng lợi nhuận quý 4 này, LienVietPostBank kỳ vọng sẽ đảo chiều được xu hướng suy giảm lợi nhuận trong 4 năm liên tục, kể từ 2012 đến 2015.

Một điểm đáng chú ý trong kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm nay của LienVietPostBank là cho vay khách hàng tăng mạnh, đạt 71.880 tỷ đồng, tăng 29,5% so với đầu năm 2016. Tính đến ngày 30/9/2016, tổng tài sản của ngân hàng đã đạt 133.080 tỷ đồng, huy động vốn đạt 107,053 tỷ đồng, tăng 34%.

Trong quý 3 vừa qua, LienVietPostBank đã đưa ra thị trường sản phẩm chiến lược là ví điện tử Ví Việt. Sản phẩm này đã nhanh chóng đạt trên 500.000 người dùng.

Cũng trong quý 3/2016, LienVietPostBank chính thức ra mắt sản phẩm mới là “Tín dụng Mắc-ca”, sản phẩm tín dụng đầu tiên tại Việt Nam dành cho phát triển cây và ngành công nghiệp mắc-ca.

Đọc tiếp »

KienlongBank báo lỗ quý 3, nợ xấu tăng nhanh

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long (KienlongBank) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 3/2016. Theo đó, nhà băng có lãi thuần đạt 172 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ. Chi phí hoạt động lên tới 153,6 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ.

Do đó, ngân hàng lỗ gần 9 tỷ đồng trong quý 3, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 21,5 tỷ đồng.

Luỹ kế 9 tháng năm 2016, lợi nhuận sau thuế của KienlongBank đạt 15,8 tỷ đồng, giảm 90% so với cùng kỳ.

Tại ngày 30/9/2016, tổng tài sản của ngân hàng đạt 26.143 tỷ đồng, tổng vốn huy động đạt 22.273 tỷ đồng, cho vay khách hàng đạt 17.253 tỷ đồng.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của KienlongBank tăng từ 1,12% hồi đầu năm lên 1,47% tính đến cuối tháng 9/2016.

Trong đó, nhóm nợ có khả năng mất là 187 tỷ đồng, tăng gần 55% so với cùng kỳ.

Theo kế hoạch được đại hội cổ đông đặt ra năm 2016, KienlongBank dự kiến đạt lợi nhuận trước thuế khoảng 330 tỷ đồng.

Mới đây, KienlongBank đã công bố chốt danh sách cổ đông ngày 15/10 để làm thủ đăng ký chứng khoán tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam và đăng ký giao dịch trên sàn UpCoM.

Ông Võ Quốc Thắng hiện nắm vai trò Chủ tịch Hội đồng Quản trị KienlongBank nhưng không nắm cổ phiếu tại nhà băng này. Con trai của ông là Võ Quốc Lợi hiện nắm chức Phó giám đốc chi nhánh Nhà Bè, nắm 14 triệu cổ phiếu, tương ứng 4,58% vốn.

Ông Thắng sinh năm 1967 tại Long An. Ông Thắng nổi tiếng trên cả lĩnh vực kinh doanh và bóng đá. Trong kinh doanh, ông Thắng đang cùng lúc giữ chức Chủ tịch của Đồng Tâm và Ngân hàng Kiên Long.

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Ngân hàng cổ phần đầu tiên nhập cuộc giảm lãi suất

Ngày 29/9, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) có văn bản chỉ đạo toàn hệ thống về việc hạ lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng.

Đây là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên (không có tỷ lệ sở hữu Nhà nước chi phối) có quyết định giảm lãi suất huy động, nhập cuộc với quyết định đầu tuần này của các ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank).

Thông cáo LienVietPostBank cho biết, mức lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng của ngân hàng này cũng bằng mức giảm của 4 ngân hàng nói trên, từ 0,3-0,5%/năm.

Cùng đó, LienVietPostBank cho biết sẽ tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong tháng 10/2016.

“Đây là động thái của LienVietPostBank nhằm hưởng ứng tích cực chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc nghiên cứu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế”, thông cáo viết.

Tính đến ngày 31/8/2016, vốn điều lệ của LienVietPostBank là 6.460 tỷ đồng, tổng tài sản trên 130.408 tỷ đồng, dư nợ tín dụng gần 73.350 tỷ đồng, huy động vốn đạt gần 120.455 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 8 tháng đầu năm đạt trên 908 tỷ đồng.

Hiện LienVietPostBank là ngân hàng thương mại cổ phần có mạng lưới quy mô lớn nhất tại Việt Nam với hệ thống hơn 130 chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng và quyền khai thác trên 10.000 điểm giao dịch bưu điện đến từng huyện, xã, vùng sâu, vùng xa trên cả nước.

Đọc tiếp »

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập”

“Tính minh bạch và đơn giản cao là những chỉ tiêu then chốt của một hệ thống thuế có hiệu quả trên thế giới, và Việt Nam đương nhiên cũng không nằm ngoài xu hướng này”.

Đây là chia sẻ của ông Phan Vũ Hoàng, Phó tổng giám đốc dịch vụ Tư vấn Thuế của Deloitte Việt Nam bình luận về xu hướng cải cách hệ thống thuế theo hướng tăng cường minh bạch hóa và đơn giản thủ tục hành chính thuế mà cơ quan thuế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang triển khai áp dụng.

Theo ông Hoàng, một hệ thống quản lý với tính minh bạch cao, trong đó người nộp thuế dễ dàng tiếp cận những thông tin và hướng dẫn cụ thể và rõ ràng từ cơ quan thuế/hải quan, sẽ giúp nâng cao tính công bằng trong xử lý thuế, từ đó khuyến khích sự tuân thủ một cách tự nguyện, tự giác của người nộp thuế.

Tương tự, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng hướng đến việc tạo điều kiện cho người nộp thuế tự giác tuân thủ quy định tốt hơn.

Về lâu dài, điều này cũng sẽ giúp cho việc quản lý của cơ quan thuế/hải quan ngày càng đơn giản, hiệu quả. Một báo cáo năm 2013 của Ngân hàng Thế giới, qua 8 năm nghiên cứu cho thấy việc đơn giản hóa thủ tục thuế là một biện pháp hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế (thậm chí hiệu quả hơn việc cắt giảm thuế suất).

Ở Việt Nam, trong chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 có nêu rất rõ mục tiêu: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện…”.

Trong 5 năm vừa qua, chúng tôi đánh giá rất cao những nỗ lực của ngành thuế để cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục kê khai thuế, ví dụ như việc cắt giảm 420 giờ thực hiện thủ tục về thuế.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn còn nhiều việc cần làm đối với hệ thống thuế Việt Nam, để thực sự bắt kịp được với yêu cầu hội nhập kinh tế sâu và rộng sắp tới, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, cho nhà đầu tư, và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế với đúng tiềm năng của đất nước.

Minh bạch không đơn giản

Theo kinh nghiệm tư vấn thuế của ông, Việt Nam cần làm gì để bắt kịp xu hướng của toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới mà trong đó minh bạch hóa đóng vai trò quyết định trong tiến trình hội nhập?

Việc minh bạch hóa và đơn giản hóa hệ thống thuế không hề đơn giản với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Có một số biện pháp mà ngành thuế Việt Nam có thể xem xét như sau.

Một là: tiếp tục hoàn thiện hơn chính sách thuế, đặc biệt là khung pháp lý. Hiện nay các quy định thuế của Việt Nam nghiêng về hướng quy định cách xử lý cho các trường hợp, nhưng lại thiếu những quy định khung để giải quyết các vướng mắc không có trong quy định.

Ví dụ như định nghĩa về “tiêu dùng tại Việt Nam” đối với thuế giá trị gia tăng cho dịch vụ xuất khẩu - do không có định nghĩa này, ngành thuế phải ban hành hàng trăm công văn hướng dẫn cho từng vướng mắc cụ thể của doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn còn hàng ngàn doanh nghiệp chưa biết xử lý như thế nào mà không dám hỏi vì sợ câu trả lời sẽ không như ý muốn của mình.

Những vướng mắc này có thể xử lý, nếu có một định nghĩa rõ ràng về “tiêu dùng tại Việt Nam” trong luật.

Hai là: cần nghiên cứu và áp dụng thực tiễn thuế tốt nhất trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Việc xử lý những vướng mắc, khúc mắc của người nộp thuế cần đảm bảo hợp lý, hợp tình, công bằng, theo đúng đạo lý thuế quốc tế chứ không thể chỉ theo ý chí chủ quan của cơ quan thuế.

Ví dụ như trong nhiều cuộc thanh kiểm tra thuế gần đây, cơ quan thuế ở một số địa phương trong nhiều trường hợp ấn định thu nhập chịu thuế dựa trên những những số liệu thiếu thuyết phục, thiếu căn cứ vững chắc, và người nộp thuế cũng không có cơ hội phản hồi, giải thích.

Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, ngành thuế cần nghiên cứu và phổ biến trong ngành những nguyên tắc, phương án xử lý những giao dịch phức tạp dựa trên thực tiễn thuế quốc tế, ví dụ có thể tham khảo những hướng dẫn của OECD.

Ba là: cơ quan thuế cần tăng cường và thường xuyên trao đổi với người nộp thuế, bổ sung thêm các kênh tuyên truyền, thông báo, trao đổi với người nộp thuế để nâng cao hiểu biết, nhận thức của người nộp thuế.

Ví dụ, cơ quan thuế có thể xây dựng những cơ sở dữ liệu tập trung và công khai về những thắc mắc thường gặp của người nộp thuế, tổ chức thường xuyên hơn những buổi thảo luận /đối thoại với người nộp thuế, tiếp thu ý kiến đóng góp của các hiệp hội, các chuyên gia tư vấn thuế trong những buổi hội thảo định kỳ về chính sách, nhất là trước khi đưa ra những quy định mới.

Kiến thức và kinh nghiệm

Xin ông chia sẻ quan điểm về tầm quan trọng của các công ty tư vấn thuế ở Việt Nam, đặc biệt trong môi trường thương mại tự do ngày càng phát triển như hiện nay?

Từ khi trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN năm 1995, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước lớn, và năm 2015 đã đánh dấu bước đi lớn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế của các châu lục khác khi hoàn tất ký kết tham gia TPP, EVFTA.

Việc ký kết nhiều hiệp định tự do sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được thị trường thế giới một cách thuận lợi hơn khi các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ được tạo cơ hội thuận lợi hơn để tiếp cận thị trường nội địa.

Đồng thời, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cũng được dự kiến sẽ có những bước đột phá ngoạn mục.

Khi tham gia vào các hiệp định, đặc biệt là TPP, Việt Nam sẽ phải cải cách nhiều quy định, cơ sở pháp lý theo yêu cầu của TPP và các FTA. Trong bối cảnh đó, cả doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đều cần trang bị cho mình những kiến thức và kinh nghiệm mới về hệ thống thuế và hải quan, không chỉ của Việt Nam mà của cả rất nhiều quốc gia khác.

Ở mỗi quốc gia, hệ thống văn bản pháp quy về thuế và hải quan dù có thể có những nguyên tắc chung, song vẫn có rất nhiều những điểm khác biệt về chi tiết. Ví dụ yêu cầu về xuất xứ, mẫu biểu kê khai, phương pháp xác định giá thị trường để tính thuế... mỗi nước có những quy định khác nhau.

Với lượng thông tin quá nhiều và phức tạp như vậy, có lẽ ít có doanh nghiệp nào có đủ nguồn lực để có thể nắm vững tất cả những quy định đó.

Trong bối cảnh đó, vai trò của những đơn vị tư vấn thuế có kinh nghiệm hoạt động trên toàn cầu và am hiểu thị trường nội địa như Deloitte sẽ là quan trọng với các doanh nghiệp.

Với kinh nghiệm lâu năm và kiến thức toàn cầu cùng sự am hiểu sâu sắc về luật pháp và môi trường kinh doanh tại Việt Nam, chúng tôi có thể chia sẻ và tư vấn cho các doanh nghiệp để trước hết đáp ứng được các điều kiện, tuân thủ đúng các yêu cầu, quy định về thuế, tiến tới tận dụng được tối đa những lợi ích mà các hiệp định thương mại tự do đem lại.

Qua việc được tư vấn với nghiệp vụ chuyên môn, được lập kế hoạch hợp lý theo những mô hình cân đối giữa chiến lược kinh doanh và nghĩa vụ tuân thủ thuế, được rà soát và chỉnh lý thường xuyên theo thực tiễn hoạt động và quy định pháp luật, doanh nghiệp có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh chính của mình mà không phải phân bổ nguồn lực để tìm hiểu những lĩnh vực trên, trong khi vẫn vừa đảm bảo tính tuân thủ cao về thuế, vừa có thể tối đa hóa những lợi ích được hưởng về thuế.

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập” 1
Đọc tiếp »