Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Ngân hàng cổ phần đầu tiên nhập cuộc giảm lãi suất

Ngày 29/9, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) có văn bản chỉ đạo toàn hệ thống về việc hạ lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng.

Đây là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên (không có tỷ lệ sở hữu Nhà nước chi phối) có quyết định giảm lãi suất huy động, nhập cuộc với quyết định đầu tuần này của các ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank).

Thông cáo LienVietPostBank cho biết, mức lãi suất huy động VND các kỳ hạn dưới 12 tháng của ngân hàng này cũng bằng mức giảm của 4 ngân hàng nói trên, từ 0,3-0,5%/năm.

Cùng đó, LienVietPostBank cho biết sẽ tiếp tục hạ lãi suất cho vay trong tháng 10/2016.

“Đây là động thái của LienVietPostBank nhằm hưởng ứng tích cực chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc nghiên cứu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế”, thông cáo viết.

Tính đến ngày 31/8/2016, vốn điều lệ của LienVietPostBank là 6.460 tỷ đồng, tổng tài sản trên 130.408 tỷ đồng, dư nợ tín dụng gần 73.350 tỷ đồng, huy động vốn đạt gần 120.455 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 8 tháng đầu năm đạt trên 908 tỷ đồng.

Hiện LienVietPostBank là ngân hàng thương mại cổ phần có mạng lưới quy mô lớn nhất tại Việt Nam với hệ thống hơn 130 chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng và quyền khai thác trên 10.000 điểm giao dịch bưu điện đến từng huyện, xã, vùng sâu, vùng xa trên cả nước.

Đọc tiếp »

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập”

“Tính minh bạch và đơn giản cao là những chỉ tiêu then chốt của một hệ thống thuế có hiệu quả trên thế giới, và Việt Nam đương nhiên cũng không nằm ngoài xu hướng này”.

Đây là chia sẻ của ông Phan Vũ Hoàng, Phó tổng giám đốc dịch vụ Tư vấn Thuế của Deloitte Việt Nam bình luận về xu hướng cải cách hệ thống thuế theo hướng tăng cường minh bạch hóa và đơn giản thủ tục hành chính thuế mà cơ quan thuế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang triển khai áp dụng.

Theo ông Hoàng, một hệ thống quản lý với tính minh bạch cao, trong đó người nộp thuế dễ dàng tiếp cận những thông tin và hướng dẫn cụ thể và rõ ràng từ cơ quan thuế/hải quan, sẽ giúp nâng cao tính công bằng trong xử lý thuế, từ đó khuyến khích sự tuân thủ một cách tự nguyện, tự giác của người nộp thuế.

Tương tự, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng hướng đến việc tạo điều kiện cho người nộp thuế tự giác tuân thủ quy định tốt hơn.

Về lâu dài, điều này cũng sẽ giúp cho việc quản lý của cơ quan thuế/hải quan ngày càng đơn giản, hiệu quả. Một báo cáo năm 2013 của Ngân hàng Thế giới, qua 8 năm nghiên cứu cho thấy việc đơn giản hóa thủ tục thuế là một biện pháp hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế (thậm chí hiệu quả hơn việc cắt giảm thuế suất).

Ở Việt Nam, trong chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 có nêu rất rõ mục tiêu: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện…”.

Trong 5 năm vừa qua, chúng tôi đánh giá rất cao những nỗ lực của ngành thuế để cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục kê khai thuế, ví dụ như việc cắt giảm 420 giờ thực hiện thủ tục về thuế.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn còn nhiều việc cần làm đối với hệ thống thuế Việt Nam, để thực sự bắt kịp được với yêu cầu hội nhập kinh tế sâu và rộng sắp tới, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, cho nhà đầu tư, và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế với đúng tiềm năng của đất nước.

Minh bạch không đơn giản

Theo kinh nghiệm tư vấn thuế của ông, Việt Nam cần làm gì để bắt kịp xu hướng của toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới mà trong đó minh bạch hóa đóng vai trò quyết định trong tiến trình hội nhập?

Việc minh bạch hóa và đơn giản hóa hệ thống thuế không hề đơn giản với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Có một số biện pháp mà ngành thuế Việt Nam có thể xem xét như sau.

Một là: tiếp tục hoàn thiện hơn chính sách thuế, đặc biệt là khung pháp lý. Hiện nay các quy định thuế của Việt Nam nghiêng về hướng quy định cách xử lý cho các trường hợp, nhưng lại thiếu những quy định khung để giải quyết các vướng mắc không có trong quy định.

Ví dụ như định nghĩa về “tiêu dùng tại Việt Nam” đối với thuế giá trị gia tăng cho dịch vụ xuất khẩu - do không có định nghĩa này, ngành thuế phải ban hành hàng trăm công văn hướng dẫn cho từng vướng mắc cụ thể của doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn còn hàng ngàn doanh nghiệp chưa biết xử lý như thế nào mà không dám hỏi vì sợ câu trả lời sẽ không như ý muốn của mình.

Những vướng mắc này có thể xử lý, nếu có một định nghĩa rõ ràng về “tiêu dùng tại Việt Nam” trong luật.

Hai là: cần nghiên cứu và áp dụng thực tiễn thuế tốt nhất trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Việc xử lý những vướng mắc, khúc mắc của người nộp thuế cần đảm bảo hợp lý, hợp tình, công bằng, theo đúng đạo lý thuế quốc tế chứ không thể chỉ theo ý chí chủ quan của cơ quan thuế.

Ví dụ như trong nhiều cuộc thanh kiểm tra thuế gần đây, cơ quan thuế ở một số địa phương trong nhiều trường hợp ấn định thu nhập chịu thuế dựa trên những những số liệu thiếu thuyết phục, thiếu căn cứ vững chắc, và người nộp thuế cũng không có cơ hội phản hồi, giải thích.

Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, ngành thuế cần nghiên cứu và phổ biến trong ngành những nguyên tắc, phương án xử lý những giao dịch phức tạp dựa trên thực tiễn thuế quốc tế, ví dụ có thể tham khảo những hướng dẫn của OECD.

Ba là: cơ quan thuế cần tăng cường và thường xuyên trao đổi với người nộp thuế, bổ sung thêm các kênh tuyên truyền, thông báo, trao đổi với người nộp thuế để nâng cao hiểu biết, nhận thức của người nộp thuế.

Ví dụ, cơ quan thuế có thể xây dựng những cơ sở dữ liệu tập trung và công khai về những thắc mắc thường gặp của người nộp thuế, tổ chức thường xuyên hơn những buổi thảo luận /đối thoại với người nộp thuế, tiếp thu ý kiến đóng góp của các hiệp hội, các chuyên gia tư vấn thuế trong những buổi hội thảo định kỳ về chính sách, nhất là trước khi đưa ra những quy định mới.

Kiến thức và kinh nghiệm

Xin ông chia sẻ quan điểm về tầm quan trọng của các công ty tư vấn thuế ở Việt Nam, đặc biệt trong môi trường thương mại tự do ngày càng phát triển như hiện nay?

Từ khi trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN năm 1995, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước lớn, và năm 2015 đã đánh dấu bước đi lớn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế của các châu lục khác khi hoàn tất ký kết tham gia TPP, EVFTA.

Việc ký kết nhiều hiệp định tự do sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được thị trường thế giới một cách thuận lợi hơn khi các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ được tạo cơ hội thuận lợi hơn để tiếp cận thị trường nội địa.

Đồng thời, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cũng được dự kiến sẽ có những bước đột phá ngoạn mục.

Khi tham gia vào các hiệp định, đặc biệt là TPP, Việt Nam sẽ phải cải cách nhiều quy định, cơ sở pháp lý theo yêu cầu của TPP và các FTA. Trong bối cảnh đó, cả doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đều cần trang bị cho mình những kiến thức và kinh nghiệm mới về hệ thống thuế và hải quan, không chỉ của Việt Nam mà của cả rất nhiều quốc gia khác.

Ở mỗi quốc gia, hệ thống văn bản pháp quy về thuế và hải quan dù có thể có những nguyên tắc chung, song vẫn có rất nhiều những điểm khác biệt về chi tiết. Ví dụ yêu cầu về xuất xứ, mẫu biểu kê khai, phương pháp xác định giá thị trường để tính thuế... mỗi nước có những quy định khác nhau.

Với lượng thông tin quá nhiều và phức tạp như vậy, có lẽ ít có doanh nghiệp nào có đủ nguồn lực để có thể nắm vững tất cả những quy định đó.

Trong bối cảnh đó, vai trò của những đơn vị tư vấn thuế có kinh nghiệm hoạt động trên toàn cầu và am hiểu thị trường nội địa như Deloitte sẽ là quan trọng với các doanh nghiệp.

Với kinh nghiệm lâu năm và kiến thức toàn cầu cùng sự am hiểu sâu sắc về luật pháp và môi trường kinh doanh tại Việt Nam, chúng tôi có thể chia sẻ và tư vấn cho các doanh nghiệp để trước hết đáp ứng được các điều kiện, tuân thủ đúng các yêu cầu, quy định về thuế, tiến tới tận dụng được tối đa những lợi ích mà các hiệp định thương mại tự do đem lại.

Qua việc được tư vấn với nghiệp vụ chuyên môn, được lập kế hoạch hợp lý theo những mô hình cân đối giữa chiến lược kinh doanh và nghĩa vụ tuân thủ thuế, được rà soát và chỉnh lý thường xuyên theo thực tiễn hoạt động và quy định pháp luật, doanh nghiệp có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh chính của mình mà không phải phân bổ nguồn lực để tìm hiểu những lĩnh vực trên, trong khi vẫn vừa đảm bảo tính tuân thủ cao về thuế, vừa có thể tối đa hóa những lợi ích được hưởng về thuế.

“Cải cách hệ thống thuế để hội nhập” 1
Đọc tiếp »

Cơ hội nào cho PVcomBank?

Ngày 1/10/2016, Ngân hàng Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank) tròn ba năm ra mắt thị trường, ba năm thực hiện tái cơ cấu. Gánh nặng còn lớn, nhưng phía trước, cơ hội thực sự phục hồi đang mở rộng hơn.

Cơ hội được xét đến khi những gì khó khăn nhất PVcomBank đã vượt qua, đã khống chế và xử lý cơ bản những vấn đề trọng yếu ở những năm đầu tái cơ cấu trong điều kiện khó khăn nhất.

Tiến trong thế khó

Hơn ba năm trước, hàng tháng trời lãnh đạo Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí (PVFC) liên tục phải xách hàng ki lô gam tài liệu đến từng đầu mối chuyên trách để giải trình, báo cáo và thuyết phục về triển vọng thành công kế hoạch hợp nhất với Ngân hàng Phương Tây (Western Bank).

Vì bối cảnh và thực trạng của hai bên có quá nhiều vấn đề đặt ra, cũng như chưa từng có tiền lệ hợp nhất một công ty tài chính lớn với một ngân hàng thương mại. Điều gần như duy nhất được khẳng định lúc đó: nếu không hợp nhất, cả PVFC và Western Bank đều rất khó tồn tại.

Sự lung lay của hai định chế tài chính có quy mô tổng tài sản lên tới khoảng 100.000 đồng này, nếu không sớm ổn định, chắc chắn sẽ ảnh hưởng và tạo hiệu ứng tiêu cực trong hệ thống.

Phương án hợp nhất được chốt lại, như một lựa chọn để khoanh vùng rồi tìm cách khắc phục rủi ro. Xa hơn, và giá trị về sau, là tạo ra cơ hội để tin tưởng về thành công tái cơ cấu, về triển vọng phục hồi.

Ngày 1/10/2013, thương hiệu PVcomBank chính thức ra mắt, qua hợp nhất. Một thương hiệu ngân hàng mới hoàn toàn, nhưng nặng nhiều vấn đề cũ. Với thị trường, sức lan tỏa của thương hiệu này trong nhận diện được thúc đẩy khá nhanh.

Nhận biết đầu tiên của một ngân hàng tiến trong thế khó, rất khó, là về thương hiệu. PVcomBank tập trung đầu tư thiết lập một hình ảnh mới, thuê tư vấn nước ngoài, bảo hộ tại hơn 100 quốc gia. Song song là những bước đi ấn tượng trong quảng bá, như việc nhanh chóng chiếm quyền xuất hiện trên cầu Nhật Tân - cửa ngõ quan trọng và thu hút nhất của Thủ đô; độc quyền xuất hiện trên thẻ lên máy bay tất cả các chuyến, chặng của Vietnam Airlines để tìm cơ hội gẫn gũi với khách hàng tiềm năng…

PVcomBank là ngân hàng gần như hoàn toàn mới. Vì trước đó, cơ cấu chiếm “tỷ trọng lớn” là PVFC, định chế tài chính rất hạn chế trong huy động, phát triển các sản phẩm dịch vụ khách hàng cá nhân. Nhưng, trong thế khó đó, họ có những bước đi chiến lược khá nhanh.

Phải mất ba năm, công nghệ ngân hàng lõi mới chuẩn chỉnh sau hợp nhất. Song PVcomBank lại là một trong những ngân hàng thương mại sớm phát triển nhanh và ấn tượng các tiện ích ngân hàng hiện đại. Ví như, nếu trải nghiệm sản phẩm PV Mobile Banking, hàng trăm tiện ích và giao dịch ngân hàng, thanh toán… tích hợp và xử lý nhanh chóng, hẳn sẽ cho thấy đây là một trong những lựa chọn tối ưu trên thị trường hiện nay.

Như trên, từng hạn chế về nền tảng khách hàng cá nhân khi hợp nhất, PVcomBank nhanh chóng tạo và mở rộng thị phần. Điển hình, tại thời điểm hợp nhất, ngân hàng này chỉ có 13.939 tỷ đồng vốn dân cư, đến nay đã đạt tới 26.953 tỷ đồng.

Sự mở rộng nhanh chóng nền tảng khách hàng cá nhân tạo bước tiến cần thiết cho yêu cầu phát triển một ngân hàng bán lẻ. Quan trọng hơn, điểm chuyển biến này giúp PVcomBank từng bước ổn định và đảm bảo thanh khoản tốt, đặc biệt chỉ số an toàn vốn (CAR) đạt được 11,6% (cao hơn mức 9% theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước).

Cơ hội từ cơ chế

Tuy nhiên, giá trị CAR nói trên, hay tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới ngưỡng 3% chỉ phản ánh sự ổn định, cải thiện tương đối. PVcomBank, cũng như nhiều ngân hàng thương mại hiện nay đang còn gánh nặng các vấn đề tài chính, mà các chỉ số sức khỏe đó chưa nói lên được tất cả.

Điểm chung ở đây, cơ chế chính sách đã tạo điều kiện, cơ hội để các ngân hàng trải đều gánh nặng ra để từng bước xử lý, tránh dồn lại mà dẫn đến đổ vỡ. Mẫu số chung điển hình như chính sách cho cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm, ứng xử với nợ xấu của Vinashin, Vinalines… Vấn đề còn lại là họ nắm được cơ hội của cơ chế để chuyển tiếp đến cơ hội phục hồi hay không?

Với PVcomBank, trước hết, cơ hội trên tạm đỡ cho gánh nặng lớn, để dồn sức xử lý một gốc rễ căn bản hơn nữa: ảnh hưởng tiêu cực của cổ đông lớn, nhóm cổ đông cùng những vi phạm về tỷ lệ sở hữu trong cơ cấu, gây hệ quả xấu cho hoạt động.

Sau ba năm tái cơ cấu, yêu cầu của Cơ quan Thanh tra Ngân hàng Nhà nước về vấn đề cơ cấu cổ đông, tỷ lệ sở hữu tại Western Bank đến nay đã được PVcomBank giải quyết triệt để. Ít nhất, ở khía cạnh này, ngân hàng đã lành mạnh hơn.

Như trên, cơ chế chính sách cho cơ cấu lại nợ tạo điều kiện để PVcomBank cân đối lại tài chính. Một sự tạm giãn để từng bước ghi nhận sát thực hơn trong tương lai. Và ngày 10/3/2016, Thủ tướng Chính phủ ra chủ trương cho phép kéo dài quá trình tái cơ cấu đến 2020, cũng là một điều kiện về thời gian. Đề án tiếp tục tái cơ cấu được Ngân hàng Nhà nước phê chuẩn.

Nhưng, để được tạo điều kiện như vậy, kết quả tái cơ cấu, về mặt tài chính phải tạo được kết quả thực tế và triển vọng.

Bước đầu PVcomBank cho kết quả khả quan. Trong ba năm đầu tái cơ cấu, họ đã thu hồi nợ xấu và tái cấu trúc 3.000 tỷ đồng, trong đó đáng chú ý là thu hồi nợ nhóm liên quan đến Western Bank trước đây là 1.238 tỷ đồng, Vinashin là 224 tỷ đồng, Vinalines 1.208 tỷ đồng, nhóm PVC 142 tỷ đồng…

Nếu tại thời điểm hợp nhất, Western Bank gặp khó khăn thanh khoản, thì PVcomBank sau hợp nhất, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, thanh khoản luôn được duy trì tốt, cũng như đã chủ động hơn trong việc cơ cấu và dịch chuyển tài sản sang những khoản có tính chuyển đổi cao, an toàn như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.

Hay sau hợp nhất, chiến lược phát triển tín dụng của PVcomBank đã cẩn trọng hơn nhiều, theo quan điểm “nắm đằng chuôi” các tài sản đảm bảo để hạn chế rủi ro.

Và như trên, nỗ lực xây dựng và phát triển thương hiệu, tăng cường mở rộng tiếp cận khối khách hàng cá nhân qua đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ giúp PVcomBank củng cố nền tảng khách hàng, tạo cơ sở để hướng tới mục tiêu thực sự phục hồi.

Tất nhiên, trong mục tiêu đó, bên cạnh cơ hội tạo điều kiện từ cơ chế chính sách, cổ đông lớn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), nắm 52% vốn, vẫn là một điểm tựa trách nhiệm, hỗ trợ trong quản lý vốn và phát triển kinh doanh, trước khi chuyển giao phần vốn sang Ngân hàng Nhà nước đại diện khi kết thúc tái cơ cấu.

Lộ trình đã định. Sau ba năm tái cơ cấu, PVcomBank có 5 năm trước mắt để tiếp tục vượt khó và khẳng định. Cơ hội còn phía trước, và ít nhất giai đoạn rủi ro nhất, khó khăn nhất họ đã vượt qua.

Đọc tiếp »

Bảo hiểm VietinBank chuyển đổi mô hình tổ chức

© Bản quyền thuộc về VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam

Giấy phép Báo điện tử số 123/GP-BTTTT, cấp ngày 7/4/2014

Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.

Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.

Tổng biên tập: Giáo sư Đào Nguyên Cát

Trụ sở Tòa soạn: 96 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (84-4) 3755 2060 - 3755 2059 / Fax: (84-4) 3755 2046

Đọc tiếp »

Giá vàng SJC chạm đáy 3 tháng

Xu hướng giảm những ngày gần đây của giá vàng thế giới đã kéo giá vàng miếng trong nước sáng nay (3/10) về sát mốc 36 triệu đồng/lượng. Giá USD tự do và ngân hàng tiếp tục xu hướng ổn định trên ngưỡng 22.300 đồng.

Lúc hơn 11h trưa nay, Tập đoàn DOJI niêm yết giá vàng SJC cho thị trường Hà Nội ở mức 36,02 triệu đồng/lượng (mua vào) và 36,08 triệu đồng/lượng (bán ra). So với cuối tuần, giá vàng SJC tại doanh nghiệp này hiện giảm 20.000 đồng/lượng cả ở chiều mua và bán.

Thị trường vàng miếng trầm lắng nên các tiệm vàng lớn tại Hà Nội áp dụng chênh lệch giá mua-bán khá thấp, phổ biến từ 50.000-70.000 đồng/lượng để khuyến khích giao dịch.

Tại thị trường Tp.HCM cùng thời điểm trên, Công ty SJC báo giá vàng miếng cùng thương hiệu ở mức 35,9 triệu đồng/lượng và 36,12 triệu đồng/lượng, tương ứng giá mua và bán.

Biểu đồ giá vàng của DOJI cho thấy vàng miếng SJC đang rẻ nhất kể từ đầu tháng 7. Giảm nhỏ giọt nhưng liên tục, giá vàng trong nước đã hạ khoảng 200.000 đồng/lượng trong vòng 1 tuần trở lại đây.

Giá vàng trong nước đang chịu sức ép giảm chủ yếu từ giá vàng thế giới. Lúc hơn 11h trưa nay theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay tại thị trường châu Á giảm 0,5 USD/oz so với đóng cửa cuối tuần trước tại New York, còn 1.316,4 USD/oz.

Phiên hôm thứ Sáu, giá vàng giảm 4 USD/oz, chốt ở 1.316,9 USD/oz.

Theo giới phân tích, giá vàng đang chịu sức ép giảm khi ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton có cơ hội thắng cử cao hơn trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào ngày 8/11 so với đối thủ Cộng hòa Donald Trump. Nếu đắc cử, bà Clinton nhiều khả năng duy trì các chính sách hiện tại, trong khi một chiến thắng thuộc về ông Trump có thể dẫn tới những xáo trộn lớn trong nền kinh tế Mỹ.

Khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất vào cuối năm nay cũng gây sức ép giảm giá cho vàng.

Tuy nhiên, mùa cưới ở Trung Quốc và mùa lễ hội cuối năm ở Ấn Độ được dự báo sẽ là những nhân tố quan trọng đẩy nhu cầu vàng vật chất gia tăng, từ đó nâng đỡ giá kim loại quý này.

Trong thời gian tới, những yếu tố hàng đầu tác động đến giá vàng được cho sẽ tiếp tục là tình hình kinh tế và diễn biến bầu cử ở Mỹ.

Hãng tin Reuters cho biết, trong tuần tính đến ngày 27/9, giới đầu cơ vàng ở Mỹ lần đầu tiên trong 3 tuần tăng nắm giữ các hợp đồng đầu cơ vàng giá lên. Trong khi đó, quỹ giao dịch hoán đổi (ETF) vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust hôm thứ Sáu tuần trước bán ròng 0,13% khối lượng nắm giữ, giảm mức nắm giữ về gần 948 tấn.

So với thời điểm cách đây 1 tuần, giá USD tự do và ngân hàng đã giảm nhẹ 5-10 đồng, nhưng nhìn chung vẫn duy trì xu hướng ổn định.

Giá USD tự do tại Hà Nội sáng nay phổ biến ở mức 22.290 đồng (mua vào) và 22.305 đồng (bán ra). Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá ngoại tệ này ở các mức tương ứng lần lượt là 22.265 đồng và 22.335 đồng.

Đọc tiếp »

Ngân hàng có thể đổi nợ xấu nhất thành vốn góp

Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo hướng dẫn việc góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng, trong đó có phần liên quan đến hoán đổi nợ xấu.

Cụ thể, dự thảo thông tư này có mục riêng quy định về việc hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng tại doanh nghiệp, sau khi đã nghiên cứu, rà soát quy định của pháp luật và thực tế xử lý trong thời gian qua.

Theo đó, dự thảo thông tư trên đưa ra quy định, các tổ chức tín dụng được thực hiện hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, nhưng phải đảm bảo các điều kiện: chỉ được thực hiện đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro; tổng mức góp vốn, mua cổ phần dưới mọi hình thức không vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại, không vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính.

Các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trước và sau khi hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, trừ trường hợp đặc biệt khi các tổ chức tín dụng đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Sau khi hoàn thiện dự thảo, thông tư trên ban hành cũng là sự cụ thể hóa cơ chế quy định về hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần từ đầu mối cơ quan quản lý là Ngân hàng Nhà nước.

Trước đó, cơ chế này cũng đã có trong Nghị định số 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, mà qua đó, từ ngày 1/9/2015, các doanh nghiệp được phép chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy khoản nợ của chủ nợ.

Trước khi có các quy định pháp lý trên, thực tế cũng đã phát sinh nhu cầu này. Như cuối năm 2014, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) đã xin ý kiến Ngân hàng Nhà nước về việc tham gia làm cổ đông chiến lược khi cổ phần hóa các cảng thành viên trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) bằng toàn bộ giá trị khoản vay trị giá 5.000 tỷ đồng.

Đọc tiếp »

Thống đốc vẫn muốn cấm kinh doanh vàng tài khoản

“Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gọi điện cho tôi, và đề nghị vẫn cấm kinh doanh vàng tài khoản”. Thông tin này được Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết trong phiên họp sáng 3/10 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Hiếm có báo cáo thẩm tra nào dài đến 17 trang như báo cáo thẩm tra về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 được bà Nga trình bày tại đây.

Liên quan đến đề xuất bãi bỏ điều 292 về tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông bà Nga cho biết đa số ý kiến tại cơ quan thẩm tra tán thành.

Tờ trình của Chính phủ chỉ nêu bãi bỏ, nhưng bản thuyết minh chi tiết trong hồ sơ dự án luật thì nêu lý do bãi bỏ điều 292 rất chi tiết và rất thuyết phục, bà Nga nói thêm.

Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị giữ lại và đưa vào các chương tương ứng quy định hành vi cấm kinh doanh vàng tài khoản, kinh doanh đa cấp bất chính… trên mạng máy tính, mạng viễn thông vì phạm vi ảnh hưởng, tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, hậu quả lớn, rất khó khắc phục cần phải có quy định để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời sửa đổi lại cấu thành: mức thu lợi bất chính, doanh thu… cho phù hợp.

Bà Nga cho biết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã trực tiếp đề nghị giữ lại quy định cấm kinh doanh vàng trên tài khoản.

Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước đều đề nghị giữ lại quy định với kinh doanh vàng tài khoản và kinh doanh đa cấp ở điều 292, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết thêm.

Cũng đồng ý với lập luận thuyết phục của Chính phủ về lý do bãi bỏ điều 292, song Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho rằng cần giữ lại hai hành vi là kinh doanh vàng trên tài khoản và kinh doanh đa cấp bất chính vì nguy hiểm cho xã hội cần tiếp tục đấu tranh.

Nhấn mạnh “cơn ác mộng đa cấp” ở các vùng quê nghèo đã khiến cử tri kiến nghị kéo dài, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải tha thiết đề nghị giữ nguyên quy định cấm đối với bán hàng đa cấp trên mạng tại bộ luật.

Cùng với bãi bỏ điều 292, nhiều nội dung Chính phủ muốn sửa đổi, bổ sung cũng nhận được sự tán thành của cơ quan thẩm tra.

Theo Chủ nhiệm Lê Thị Nga, đa số ý kiến Uỷ ban Tư pháp tán thành với việc cần có quy định miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tiễn như Chính phủ trình.

Tuy nhiên, đối với trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự khi “pháp nhân thương mại tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước thừa nhận” thì chưa đảm bảo tính nghiêm minh.

Nhất là trong điều kiện pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường đang có xu hướng gia tăng và ngày càng nghiêm trọng như hiện nay.

Đồng thời, cũng không đảm bảo công bằng về chính sách hình sự đối với cá nhân vì theo quy định tại Điều 84 thì tình tiết “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong khi đó, cũng chỉ với tình tiết này pháp nhân thương mại lại có thể được miễn trách nhiệm hình sự là bất hợp lý.

Đề xuất lấy lại dấu hiệu “bỏ trốn” quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 vào cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm tài sản của Chính phủ cũng được Uỷ ban Tư pháp nhất trí.

Song, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” là đã đầy đủ, nên không cần phải quy định dấu hiệu “bỏ trốn” vào cấu thành cơ bản của điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông

1. Người nào cung cấp một trong các dịch vụ sau đây trên mạng máy tính, mạng viễn thông không có giấy phép hoặc không đúng nội dung được cấp phép, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm:

a) Kinh doanh vàng trên tài khoản;

b) Sàn giao dịch thương mại điện tử;

c) Kinh doanh đa cấp;

d) Trung gian thanh toán;

đ) Trò chơi điện tử trên mạng;

e) Các loại dịch vụ khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định của pháp luật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Có tính chất chuyên nghiệp;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc có doanh thu từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội trong trường hợp thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên hoặc có doanh thu 5.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Đọc tiếp »